... Một buổi chiều đầu tháng tư năm "sáu lăm", tiểu đoàn 10 dừng chân ở làng Dưỡng Mông. Trung đoàn gửi xuống hai chiến sĩ mới. Một người cao dong dỏng, quê Phú Vang tên là Thi. Người thứ hai vóc người vừa phải, trắng trẻo, giọng nói nhẹ, nhìn qua cánh lính trinh sát của tiểu đoàn cũng biết là dân thành phố, tên Duyệt. Trong lá thư tay của ông trung đoàn trưởng gửi cho ban chỉ huy tiểu đoàn lưu ý nhắc: Duyệt là sinh viên năm thứ hai khoa luật, cơ sở nội tuyến của thành đoàn Huế bị lộ phải đưa ra. Nguyện vọng duy nhất của Duyệt là được về đơn vị bộ đội giải phóng để trực tiếp cầm súng đánh giặc.
Về đơn vị được ít ngày, Thi được cử đi học lớp y tá cấp tốc sáu tháng ở trên căn cứ. Còn Duyệt sau mấy chuyến đi công tác với cán bộ tham mưu, tác chiến của tiểu đoàn, anh đã mau chóng chinh phục được sự tin yêu của trung đội trinh sát vốn khó tính và hay đố kỵ với những tay lính mới. Trời phú cho Duyệt sự nhạy cảm, đầu óc phán đoán giỏi những tình huống địch tình phức tạp, cộng thêm với lòng dũng cảm của người lính trinh sát luôn phải đối đầu với những nguy hiểm, cận kề cái chết, nên Duyệt được coi là một trinh sát cừ khôi, quả cảm. Những anh chàng nhát gan, làm việc tắc trách thì cho hành động của Duyệt trong những chuyến đi điều nghiên là liều lĩnh. Đúng là Duyệt liều thật nhưng là một sự liều lĩnh có tính toán và rất cần thiết cho cấp trên trong việc tổ chức chỉ huy các trận đánh. Đi bám địch, Duyệt lên được sa bàn và chỉ ra từng ổ đề kháng của tụi ngụy, vị trí của bọn chỉ huy đại đội ở đâu, khẩu cối 61 ly đặt ở chỗ nào. Duyệt còn có cái mũi thính, tài phát hiện ra tụi Mỹ, tụi ngụy phục kích trên các nẻo đường rừng.
Tuy vậy, Duyệt cũng là một tay hay lý sự. Vượt qua bức tường tú tài toàn phần và đã bước sang năm thứ hai khoa luật, đầu óc Duyệt chất chứa không phải là ít thứ văn chương Đông - Tây, kim cổ và một mớ triết học từ Khổng đến Lão, đến Kant, Giăng Pôn - xác trộn lẫn cùng với thuyết duy tâm của Hê-ghen và cả chủ nghĩa duy vật biện chứng của Mác - Ăng-ghen đọc qua bản tiếng Pháp hoặc đã biến dạng vào các bài giảng của ông thầy dạy. Bỏ thành phố, Duyệt đem vào cuộc đời người lính cầm súng vốn tri thức có được trên học đường và bầu nhiệt huyết của tuổi trẻ Huế những năm sôi động.
Ngày còn ở trung đội trinh sát tiểu đoàn, Duyệt hay tranh luận với một số chàng trinh sát trẻ, phần đông vừa tốt nghiệp cấp II, cấp III ở các trường miền Bắc. Duyệt thì bảo truyện Kiều của cụ Nguyễn Du không thể nào sánh nổi thơ Nguyễn Công Trứ. Theo Duyệt, đấy mới là đỉnh cao của văn học cổ điển Việt Nam. Duyệt lý giải rằng thơ Nguyễn Công Trứ có sức mạnh phản kháng. Còn cụ Nguyễn Du thơ là nước mắt. Các bạn trẻ tiếp nhận truyện Kiều qua lớp học lợp tranh, bàn ghế đặt trên nền đất ẩm ướt đào nửa chìm nửa nổi trên mặt đất, núp dưới bóng tre để tránh máy bay Mỹ oanh tạc lại ra sức khẳng định rằng truyện Kiều là hay nhất, rằng Nguyễn Du đã tạc vào xã hội phong kiến Việt Nam hình ảnh người Việt Nam bi thương, phẫn uất... Cuộc tranh cãi rầm rộ. Mỗi bên đều đưa ra nhiều luận thuyết có sức thuyết phục, viện đến cả Mác, cả Kant, cả Hêghen...
Các mẹ, các chị nhìn mấy chú giải phóng cãi nhau chỉ cười. Các cô gái đứng thập thò trong bếp dỏng tai nghe thầm khen các anh giỏi, và thoáng đỏ mặt. Có một lần ông Bậu đến ngồi nghe cánh lính trinh sát cãi nhau. Tiểu đoàn trưởng khẽ nhăn mặt:
- Cãi nhau cái cục cứt. Nguyễn Du cũng giỏi, Nguyễn Công Trứ cũng tài... Bà Hồ Xuân Hương càng tài nữa. Không tài không giỏi răng văn thơ mấy ông ấy, bà ấy còn lại tới ngày nay cho tụi bây cãi. Tao coi thử tụi bây, đứa mô ngày sau còn sống, viết được sách về những thằng lính giải phóng như chúng mình bây chừ. Tao đọc không thấy sượng mặt, thằng nớ cũng tài.
Cánh lính trẻ cười vang, xí xóa. Còn ông Bậu rút chiếc bi đông Mỹ bóng nhoáng, bình thản rót rượu ra chiếc nắp tợp một hớp.
- Thủ trưởng nói "bậy" hung. - Một đứa nháy theo giọng Huế của ông Bậu - O Chồn nghe thấy thế nào cũng phê bình thủ trưởng.
- Chồn với cáo chi. Bây chỉ nói lung tung - Ông Bậu đánh trống lảng, gương mặt đỏ hồng tươi tắn. Không rõ vì men rượu kích thích hay bởi đám lính nhắc khéo đến O Chồn.
Nghe đồn ông Bậu mê O Chồn. Duyệt và cánh trinh sát tiểu đoàn khẳng định rằng: Bữa nào đi đồng bằng lên bao giờ O Chồn cũng mua quà gửi ông Bậu. Đơn giản thôi: một hộp sữa Ông Thọ, một ký đường hoặc cây thuốc Ru-by vàng hoặc gói trà Blao có hình đức Phật Như Lai, cũng có khi là gói kẹo mè xửng Huế. Chuyện chẳng có gì nhưng lính tráng mượn cớ để trêu thủ trưởng, lúc ông xuống các đơn vị ngồi tán dóc với anh em. Ông Bậu quý Duyệt lắm. Chưa hẳn vì Duyệt là người đồng hương với ông. Cả tham mưu trưởng Nhàn, gốc người Nam Định cũng mến Duyệt. Họ đều nhìn thấy ở anh chàng lính trinh sát tương lai sẽ là một cán bộ chỉ huy giỏi. Duyệt vào Đảng nhanh, rồi cứ thế qua các cấp A trưởng trinh sát, B trưởng trinh sát, rồi về làm đại đội trưởng đại đội 1 chủ công sau chiến dịch Mậu Thân đợt 2. Duyệt thay Nhàn khi anh hy sinh trong trận đánh về Văn Xá, rồi lên một bậc nữa tiểu đoàn phó, tiểu đoàn 10. Những người đảng viên cũng chẳng còn thời giờ mà vặn vẹo cái mớ triết lý của Duyệt - vốn liếng mang về từ thành phố. Cuộc chiến đấu càng ngày càng thêm phức tạp. Chiến dịch nối tiếp chiến dịch. Lớp hy sinh, lớp bị thương đưa về tuyến sau theo nhau. Những người lính tuổi mười tám, đôi mươi ngày ấy như Để, Hồng, Minh, Tuy, Duyệt... già dặn hơn trong chiến đấu. Sau mỗi chiến dịch, từng trận đánh các anh được vào Đảng, nhanh chóng nắm vững những vị trí trụ cột ở cấp đại đội và tiểu đoàn.
Có một điều ít ai biết đến, ngay đám bạn bè thân trong tiểu đoàn cũng chưa bao giờ Duyệt tâm sự. Chỉ riêng anh biết và chôn chặt trong lòng.
Anh là một đứa trẻ hoang, được bà bán bún bò ở kế choAn Cựu nuôi nấng. Hai vợ chồng già không con cái. Ông đạp xích lô. Mỗi sáng bà làm một gánh bún bò ra bán ở bến xe An Cựu, bảy giờ sáng gánh bún hết veo, lãi được vài trăm đủ tiền đi chợ. Duyệt về ở với bà bán bún từ năm ba tuổi. Mẹ đẻ của Duyệt lấy chồng và không muốn nuôi đứa con trót dại của mình làm tổn hại đến hạnh phúc mới, nên đã cho hai vợ chồng già không có con cái thằng bé ba tuổi còi cọc và hay đau vặt. Hơn hai chục năm sống trong vòng tay người mẹ nuôi tốt bụng, Duyệt lớn lên và được ăn học đàng hoàng, tử tế. Duyệt học giỏi. Trong số sinh viên cùng khóa, bao gồm đủ hạng con cái nhà chủ tiệm buôn, con ông tỉnh trưởng, con ông chi trưởng cảnh sát, con chủ ruộng... cậu con trai bà bán bún bò thường đứng đầu bảng về học tập. Mã ngoài không kém cạnh, lại hát hay, biết cách nói chuyện với bạn gái... Duyệt được nhiều cô mến mộ. Nhưng khi họ bước chân vào con hẻm lầy lội ở sau chợ An Cựu, đứng trước ngôi nhà tôn, vách tường long lở, nền xi măng nham nhở bốc mùi ẩm mốc, các cô gái đâm ngại ngần. Duy chỉ có một người - Tuyết Minh - cô con gái ông giám đốc công ty bưu điện Huế, học dưới Duyệt một lớp, đeo đẳng mối tình khấp khểnh. Sức mạnh của tình yêu lấn lướt những mặc cảm do xã hội bày đặt, ước định.
Khi ấy, Duyệt đã được một người bạn móc nối, hoạt động trong tổ chức sinh viên yêu nước ở Huế. Một cô gái có "bồ" hoạt động cách mạng, thường đi đầu trong những cuộc biểu tình, bãi khóa của sinh viên, học sinh, thỉnh thoảng lại giơ ra trước mắt người yêu những tờ truyền đơn của phía "bên kia", từng tham gia trong những cuộc ném đá vào xe Mỹ, oách lắm chứ.
Ngày chủ nhật, đôi bạn thường đạp xe lên Thiên An chơi, hoặc ôn bài, gói theo vài ổ bánh mì, chai nước, thế là đủ. Duyệt say sưa kể cho cô bạn gái đáng yêu những cuộc họp bàn của các anh về những dự định và cả một trời đầy viễn cảnh sáng chói, đọc những bài thơ phản chiến, những câu thơ bừng bừng khí phách cách mạng của tuổi trẻ Huế do các tác giả: Nguyễn Bình Trọng, Tần Hoài Dạ Vũ, Thái Ngọc San sáng tác... Tuyết Minh ngồi lặng người, mắt lơ đãng nhìn ra mặt hồ. Và nàng chỉ còn biết gửi lòng ái mộ người tình bằng một cái hôn nhiều khi rơi cả cặp kính cận xuống cỏ. Họ chẳng ước hẹn một tương lai. Đã là tình yêu thì cần gì phải thề thốt. Ấy là chưa kể Duyệt không quên nhồi nhét trước cho người yêu một viễn cảnh.
Đưa người ta không đưa qua sông (1)
-----
(1) Thơ của Thâm Tâm.
Sao có tiếng sóng ở trong lòng
Bóng chiều không thắm không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong.
........
Ly khách - ly khách con đường nhỏ
Chí lớn chưa về bàn tay không
Thì không bao giờ nói trở lại
Ba năm mẹ già cũng đừng mong.
Giọng Duyệt trầm ấm. Phảng phất có một chút gì đó phiêu bạt, giang hồ của lữ khách. Những lúc ấy, Tuyết Minh thường đỏ hoe đôi mắt, Duyệt lấy khăn mùi xoa chấm nước mắt cho nàng. Chỉ một lát sau nàng cười ngay đấy. Họ lại chơi trò trốn tìm giữa những gốc thông non mới mọc cao quá đầu người ven hồ, họ ngồi bên nhau, nghe tiếng gió ngàn thổi vi vút trên đỉnh cây. Nghe tiếng lá thông rơi vàng trên thảm cỏ lúc hoàng hôn đang tím lại dưới tán rừng thấp và chỉ còn một chỏm nắng đậu trên tháp chuông nhà thờ Thiên An. Ngôi nhà thờ ngự trên đỉnh đồi đã vài chục năm. Giấu sau bức tường loang lổ rêu phủ kia, trong ấy không biết có bao nhiêu cô gái đồng trinh, lâu lâu mới thấp thoáng bóng vài chiếc mũ trắng, áo trắng đi lại trong khoảnh vườn thưa hoặc ra giếng múc nước. Hồi chuông cầu nguyện buổi chiều đặc quánh, quyện lại trong cái không gian u tịch, hoang vắng của những dãy đồi thông trập trùng.
Cơ sở Huế bị vỡ. Một số sinh viên bị bắt, Duyệt lanh chân chạy thoát được về Truồi, rồi được móc nối đưa lên xanh. Mấy tháng sau, Duyệt nhận được tin của người bạn đang công tác ở Thành đoàn Huế: Minh Tuyết đã nhận lời lấy một giáo sư dạy Việt văn, người Đà Nẵng.
"Cũng phải thôi!" - Duyệt tự an ủi mình. Anh tặc lưỡi, vứt mạnh mẩu thuốc xuống dòng sông Hai Nhánh. Dòng sông Hương đâu có phẳng lặng hiền lành. Có chăng chỉ khúc dưới khi gần đổ ra biển. Phía thượng nguồn Tả Trạch và Hữu Trạch cũng vô số thác ghềnh và đầy hiểm trở. Cái sự êm ả kia chỉ là sự đánh lừa những kẻ khi chưa đi tới ngọn nguồn của nó. Con sông còn vậy huống chi là con người?
Duyệt cười một cách cay đắng. Anh muốn nguôi quên nỗi đau của mình bằng tiếng súng và cũng là một cách tự thể nghiệm con người mình trong chiến tranh. Tuy vậy, nỗi đau vẫn cứ ngấm ngầm cấu xé tựa như một chiếc răng sâu, lâu lâu lại tấy đau một lần khiến cho người bị đau mất ăn mất ngủ. Giữa một tập thể chiến sĩ giải phóng phần đông là người Bắc, Duyệt dịu xoa nỗi đau của mình bằng những bài hát cách mạng. Chỉ cần nghe vài lần trên làn sóng điện, anh đã có thể tự mày mò những gam nhạc trên cây ghi-ta gỗ và hát. Đồng đội bảo anh là con người dễ hòa đồng với đời người chiến sĩ cách mạng, vô tư, yêu đời và đầy nhiệt huyết của tuổi trẻ. Trong nhiệm vụ của người lính trinh sát, anh quả cảm, sâu sát, có nhiều ý kiến sáng tạo trong cách đánh địch. Các cán bộ chỉ huy bảo ở anh có khả năng lớn về chỉ huy quân sự. Đến nỗi một lần ở Quảng Điền, Duyệt nhảy lên diễn đàn nói chuyện với thanh niên vùng mới giải phóng, có anh cán bộ tuyên huấn của trung đoàn xuống công tác đã có ý định rút Duyệt đưa về làm trợ lý. Tất nhiên là ông Bậu phản đối kịch liệt. Chả ai dại gì để mất một tài năng như vậy.
Ông Bậu nhiều lần mắng Duyệt không tiếc lời về tội liều mạng khi bám địch. Mắng như chan tương đổ mẻ để rồi mà thương cậu trung đội trưởng trinh sát của mình hơn. Duyệt lúc ấy chỉ cười. Đợi thủ trưởng Bậu (lúc ấy ông Bậu mới là tham mưu trưởng tiểu đoàn) nói cho chán, Duyệt mới lòi ra bao Pa-man đỏ chót mời ông Bậu hút.
- Mày còn cà phê không Duyệt? - Ông Bậu vỗ vai Duyệt.
- Để em coi thử đã, thủ trưởng thèm cà phê à?
Duyệt có một cái "kho" cơ động ở trong rừng quanh những nơi đơn vị về đóng quân. Nhiều tay trinh sát "lỏi tỳ" hy vọng mò ra kho bí mật của Duyệt để khui thuốc lá, cà phê. Nhưng Duyệt còn tỏ ra cao thủ hơn đám chiến sĩ của mình. Vui vẻ thì ra "kho" lấy về một bao thuốc Ru-by hoặc Cap-stan chia cho mỗi người một điếu. Cà phê của Mỹ, những gói nhỏ bằng hai đầu ngón tay, đổ một lúc hàng chục gói, cả đường và cà phê vào hai chiếc bi đông Mỹ. Cà phê đặc sệt san ra những chiếc bát tráng men xanh hoặc bát "B52" chia cho cả tiểu đội, trung đội. Không thích thì thôi. Dù thủ trưởng tiểu đoàn có "nịnh", Duyệt cũng bỏ ngoài tai và nhăn mặt như một gã đau răng:
- Hết thiệt mà thủ trưởng! Em tiếc chi mấy anh. Cà phê còn mô nữa. Để bữa nào em sục lên bãi Mỹ kiếm về đã nghe. Nhất định em để phần thủ trưởng.
Nhưng đến đêm, cả tiểu đội trinh sát chui vào căn hầm nằm ngủ, võng mắc sát sạt lưng nhau, tầng trên tầng dưới, đùi người nọ gác đùi người kia. Duyệt nằm phân tích cái ngốc của Chu Du trước tài đối thoại của Gia Cát Lượng trong chuyến sang Ngô phối hợp diệt tám mươi vạn quân Tào bằng ngọn lửa Xích Bích. Duyệt có một giọng nói say sưa, đầy thuyết phục. Vô tình một cậu nào đó xuýt xoa:
- Anh Duyệt nói hay thiệt. Giá đất nước hòa bình anh phải là một giáo viên đứng trên bục giảng đại học mới phải.
Duyệt hứ một tiếng:
- Ngoài Bắc tụi bay "quê" thấy mồ. Gọi thầy dạy đại học là giáo viên! Giáo sư chứ...
- Vâng... Vâng! Giáo sư... - Mấy cậu chiến sĩ cùng phụ họa.
Chờ một lát cho tiếng nói lắng đi, Duyệt ra lệnh:
- Thằng Nghi xuống khe múc nước. Thằng Xu mở gùi tao lấy miếng xăng Mỹ nhóm lửa. Tao ra ngoài một lát nghe tụi bây.
"Ra ngoài một lát" nghĩa là trung đội trưởng ra chiếc "kho" bí mật của mình. Thuốc lá Mỹ và cà phê lại có. Câu chuyện lại râm ran trong căn hầm ngột ngạt hơi thuốc lá thơm lừng. Vô phúc cho cậu nào trong đơn vị trinh sát muốn ăn mảnh, theo chân Duyệt ra rừng giữa đêm hôm khuya khoắt, len lách qua các bụi giang, gốc cây lấp lánh ánh lân tinh phát ra từ các cây cỏ mục. Chẳng thấy tăm hơi Duyệt đâu ngoài màn đêm mông lung bí ẩn và tiếng con suối chảy róc rách luồn qua lèn đá. Kẻ ăn mảnh sẽ không thoát nổi con mắt trinh sát nhà nghề của Duyệt. Trung đội trưởng trừng trị cậu ta bằng cách bắt nằm ở chiếc võng ngoài che gió cho cả bọn và ngửi hơi thuốc lá. Duyệt có biệt tài lần mò ra các bãi Mỹ đổ quân. Chỉ cần nghe tiếng máy bay phành phạch ở một khoảng rừng nào đó, Duyệt đã phán đoán khá chính xác bãi máy bay. Thằng lính Mỹ dư đạn và cũng dư cả đồ hộp, thuốc lá, xà bông. Có lần tổ trinh sát của Duyệt vớ được nguyên cả mười tám két đồ hộp, lính Mỹ khuân không hết lấp vội vàng dưới một lớp đất mỏng ở một điểm cao bên khe Trái. Chỉ từ ngày lên cán bộ đại đội, rồi tiểu đoàn, cái "kho" của Duyệt mới không còn nữa. Dù gì cũng là một sĩ quan chỉ huy, sự phóng khoáng và khôn lanh của một anh trinh sát được thay thế bằng một tác phong đứng đắn, chững chạc của một người cầm quân. Tuy vậy, chiếc gùi may bằng bạt Mỹ của Duyệt cũng không thiếu thuốc thơm, cà phê, trà và sữa hộp...