Họ đi sâu vào cánh rừng còn ướt đẫm sương đêm, nhằm theo hướng Đông Bắc. Lớp sương mù chưa tan và những dãy mây trắng trùm phủ đỉnh rừng ở dãy Hòn Ngang, Một Mái. Lá cỏ tranh sắc cứa vào những bắp chân trần ran rát. Đường mới đạp lần đầu, người đi đầu là khổ nhất. Vừa phải định hướng cho trúng, vừa phải luồn lách tránh cây rừng. Có lúc luồn qua những bụi giang lớn, thân cây nằm ngả nghiêng đổ rạp trên mặt đất. Có lúc đội hình phải dừng lại vừa nghe ngóng, vừa quan sát.
Tất cả có bảy người, Hồng chia ra làm hai tổ. Tổ đi đầu gồm bốn người do Hồng trực tiếp nắm, Cường giữ B.40. Tổ thứ hai có một chiến sĩ của trung đội 2 và thêm hai người của bên đường dây thành phố. Họ có nhiệm vụ đi với đội đạp đường của Hồng đem thư của ông Thọ về đồng bằng và chuyển tin tức ở dưới đó lên cho huyện và thành ủy. Hai chiến sĩ đường dây thành phố là Ngọc Anh và Tân. Hồng quen biết cả hai. Ngọc Anh đã nhiều lần đưa Hồng cùng với đại đội của anh về đánh ở Phú Ổ và chợ Văn Xá. Còn Tân là anh Thùy, cô gái đội trưởng đường dây thành phố hiện đang nằm ở dưới đồng bằng. Lúc Hồng giao nhiệm vụ cho toàn đội và hợp đồng tác chiến khi gặp địch ở dọc đường, Ngọc Anh chỉ ngồi tủm tỉm cười. Hồng biết nhưng giả đò ngó lơ. Anh lo cho những ngày đạp rừng sắp tới.
Nhác trông qua cũng nhận ra hai sắc áo lính. Những người bộ đội mặc áo vải ga-ba-đin xanh dày, quần đùi rộng màu cỏ úa. Ngọc Anh và Tân mặc áo may bằng thứ vải xanh thẫm pha nilon quần đùi ống hẹp gọn, may bằng thứ vải Nhật. Họ quàng sau lưng khẩu AK báng xếp kiểu súng cánh bộ binh thường ao ước. Nếu có, chỉ trang bị cho những người lính trinh sát. Hồng bắt tất cả đều phải đeo xanh-tuya-rông có băng đạn, lựu đạn, thủ pháo... nhảy trước mặt anh. Anh nhắc Cường cột cho chắc mấy quả đạn B.40 trên giá. Từ lúc bốn giờ sáng, những người đi làm nhiệm vụ đã được đánh thức và lót dạ bằng soong cháo gạo của cơ quan huyện ủy đãi. Chị Hoa còn gói theo cho họ một bọc bắp bung nhừ giao cho Ngọc Anh giữ làm bữa ăn chung cho cả buổi chiều.
Chẳng biết từ bao giờ, cánh bộ đội chủ lực quân khu thường gọi bộ đội trung đoàn 5 là "lính quần đùi". Ít thấy trong tư trang của người chiến sĩ ở đây có đến hai chiếc quần dài. Hai chiếc là thừa. Chiếc quần dài chỉ được dùng trong những trường hợp ban đêm khi đi ngủ, mặc cho khỏi bị muỗi a-nô-phen đốt, hoặc khi người chiến sĩ lên sơn sốt mặc ấm đôi chân. Còn ở tuyến giáp ranh, suốt ngày diện quần đùi áo lính xắn tay: đi cảnh giới, đi bám địch, đi đồng bằng đều tiện lợi. Rừng giáp ranh Phong Quảng - Hương Trà nhiều mây giang, cây gai... dễ mắc quần áo và gây ra nhiều tiếng động. Người chiến sĩ với đôi chân trần trở thành một hình ảnh quen thuộc. Quen đến nỗi nó trở thành một ý niệm để phân biệt ta với địch khi hai bên gặp nhau bất chợt giữa rừng lúc chưa nhận ra nhau một cách chính xác. Ngay đến tư lệnh quân khu, trung đoàn trưởng xuống các đơn vị, bắt đầu vượt qua tuyến sông Bồ cũng phải đánh quần đùi để tránh xảy ra nhầm lẫn đáng tiếc.
Tiếp đến là giã từ cái mũ cứng. "Cái thứ ni tụi bây đội về giáp ranh chỉ tổ xơi đạn của mấy đứa đi cảnh giới". Mấy anh cán bộ tiểu đội, trung đội đi nhận quân bảo mấy cậu tân binh.
Chiếc màn cũng vất. Giường chiếu đâu mà mắc màn? Chiếc chăn xé làm hai mảnh. Một mảnh đắp một mảnh may chiếc gùi vải thay thế cho chiếc ba lô con cóc lắm dây nhợ chỉ tổ hay mắc vào cây rừng. Chỉ còn lại chiếc quai ba lô sau hơn ba tháng đeo trên vai ẩm mồ hôi là còn thủy chung với anh để bắt đầu nhập cuộc đời lính sống ở vùng giáp ranh. Tiếng nói của họ cũng nhỏ đi và hình như ai cũng trở nên ít nói, trừ lúc đêm khi họ đã chui vào căn hầm leo lên võng và biết chắc chung quanh đêm nay không có địch. Tất cả những quy ước trên đây đã trở thành điều lệnh bất thành văn của những người lính chiến đấu ở vùng giáp ranh. Người đi trước bảo cho người đi sau; cứ vậy lớp này đến lớp khác.
... Hồng đi sau tổ bám địch. Đi được khoảng mươi bước anh lại bẻ một cành cây làm dấu. Con đường các anh đang mở hôm nay biết đâu sẽ là một con đường mới cho những ngày tới khi con đường trục cũ cắt băng qua dốc Đu, dốc Cát, đang bị cứ điểm của địch đóng ven Hòn Vượn và đồi Chóp Nón khống chế... Lâu lâu lại bắt gặp một con đường nhỏ cắt ngang hướng đi của đội đạp rừng. Đường của dân đi củi xưa kia, hay đường của thám báo Mỹ - ngụy? Đôi khi họ còn gặp những hố bom, hố pháo. Trên những bờ đất còn in rõ những dấu giày răng chó của tụi lính thám báo chen giữa những vết chân thú rừng để lại.
Vượt qua một đoạn đường, ngược theo con suối nhỏ họ bắt gặp một triền đồi tranh cao ngang thắt lưng. Hồng ra dấu cho tổ đi đầu dừng lại quan sát. Nắng sớm giải vàng trên chỏm rừng già nơi đỉnh đồi. Và kia... một đàn hươu ước đến hàng chục con đang gặm cỏ, và đùa giỡn nhau. Những cặp sừng cao lúc lắc thấp thoáng trong đám lá tranh che khuất khoảng bụng. Cường giơ tay chỉ cho Hồng. Anh khẽ gật đầu tỏ ý đã phát hiện ra đàn hươu. Ánh mắt của những người lính thèm thuồng. Ước gì họ được bắn. Chỉ một phát thôi, một con hươu sẽ nộp mạng. Vài chục con người sẽ được bữa thịt toái loái. Ở trên một chạc cây cao, ngay trên đầu lũ hươu là một đàn vẹt xanh đông tới hàng trăm con kêu choe chóe tranh nhau ăn thứ quả rừng.
Bất chợt, một tiếng hươu tác lên hoảng hốt. Cả bầy hươu đang ham vui cuống cuồng tháo chạy lên mỏm đồi, biến mất sau vạt rừng xanh. Đàn vẹt thấy động bay quáng quàng rít lên những tiếng lảnh lót kéo nhau bay về ngả Hòn Ngang.
Phút chốc sườn đồi tranh trở lại im ắng như chưa có nơi đây cảnh sống của bầy thú hoang dã. Chỉ còn lại sự tĩnh lặng thường gặp trong chiến tranh giữa hai đợt ngưng tiếng nổ và những hố pháo, hố bom đỏ lòm mà lớp cỏ tranh chưa kịp phủ kín che đi vết thương của rừng.
Từng người một lặng lẽ xách súng vượt qua bãi tranh. Mỗi người phải bẻ một cành cây che lên đầu, lên lưng. Họ như một cụm cây nhỏ tiến dần từng bước qua suốt quãng đường hơn trăm mét. Bước chân cuối cùng của người bên kia lọt hẳn vào vạt rừng xanh thì người bên này mới xuất phát. Hồng đi được khoảng hai phần ba quãng đường, có tiếng máy bay trinh sát vọng lại rõ dần, anh đành phải ngồi nguyên tại chỗ quan sát. Lúc ấy, Hồng mới nhận ra các anh đang làm một việc cực kỳ nguy hiểm. Cả đội hình đang giơ lưng ra trước mắt tụi lính ở Hòn Vượn. Chỉ bằng mắt thường cũng thấy được những thằng lính nhỏ bằng ngón tay đi lại trên đỉnh đồi đã bị máy xúc, máy ủi cày lên đỏ ối. Bao quanh chân Hòn Vượn một tuyến đường xe đã mở xong nối từ đường chiến lược chạy vòng xoáy trôn ốc leo dần lên tới đỉnh. Những chiếc xe GMC phủ bạt kín mít, từng tốp hai chiếc một bám đuôi nhau lầm lũi đi trên đường. Trên dãy Hòn Dài, dốc Đu, những đơn vị lính ngụy đóng dã ngoại, nhà bạt mọc san sát.
Phải mất gần nửa giờ, toàn bộ đội hình của tổ đạp đường mới vượt qua khỏi bãi tranh trống trải. Họ tiến vào một khe đá hiểm trở. Dòng suối nhỏ len lách qua các kẽ đá rêu phủ xanh trơn nhẫy. Lòng khe hẹp, dốc. Từng chặn lại bắt gặp một hố nước sâu. Hồng ra hiệu cho tổ đi đầu dừng lại nghỉ. Ngồi một lát, anh cầm khẩu AK lần dọc theo con suối.
- Cho tui đi với anh Hồng! - Ngọc Anh nài.
Hồng quay lại vẫy tay. Ngọc Anh chạy dấn thêm mấy bước cho kịp Hồng.
- Chuyến ni về đồng bằng anh có định tìm gặp chị Thùy không anh Hồng?
- Có việc chi mà phải gặp?
- Anh xạo. Tui nói lại chuyện ni với chị Thùy anh chết nghe - Ngọc Anh cười tinh quái, nói một cách thiệt thà - Tui cầm thư của chú Thọ gửi chị Thùy đây. Tui sẽ đưa anh đi tìm chị Thùy nghe.
Hồng giả bộ im lặng, quan sát những hố nước dọc ven suối có những đàn cá xanh chạy loang loáng dưới đó. Thỉnh thoảng có con lại chìa ra cái bụng trắng lóng lánh.
Thực ra, chuyện đồn đại về mối quan hệ giữa Hồng và O Thùy đường dây đã loang ra lâu rồi trong đám chiến sĩ đại đội 3 và cả cánh bên huyện. Dù Hồng và Thùy cố bưng bít, giấu kín tình cảm của họ, nhưng tình yêu tựa như một thứ hương thơm, không màu sắc, không sờ thấy nhưng hương vị của nó cứ loang ra mãi, ai cũng cảm nhận được. Chuyện của Hồng và Thùy đã trở thành đầu đề trêu chọc của cánh cán bộ và chiến sĩ đại đội 3, nếu có dịp; và cả các cô các cậu bên huyện ủy, huyện đội trong những chuyến đi đồng bằng. Có lẽ duy nhất người không thích nghe câu chuyện đàm tiếu về Hồng và Thùy là Tư, đội phó biệt động huyện. Anh ta "đeo" Thùy hai năm nay. Hàng chục lá thư cùng với sữa, đường, kẹo nu-ga và cả những lọ nước hoa Pháp xinh xinh Tư gửi sang cho Thùy đều bị cô trả lại một cách không thương tiếc. Đã có những tin đồn xấu cho Thùy, dạo cô đi điều trị ở bệnh xá tỉnh ba tháng. Cô bỏ ngoài tai. Cô biết tin ấy từ đâu ra. Và việc Thùy trở thành huyện ủy viên kiêm đội trưởng đội biệt động và đường dây phụ trách cánh Bắc Huế dường như xóa sạch những tin đồn bậy bạ. Tư càng cay đắng nhìn cuộc tình đang diễn ra giữa một cô cán bộ địa phương với một anh chàng bộ đội chủ lực.
Riêng Hồng, cho đến bây giờ anh cũng chưa tự lý giải được vì sao anh lại yêu Thùy. Anh chỉ biết một điều rằng cuộc đời anh từ nay không thể thiếu được cô. Dầu cô chưa phải là người con gái đẹp nhất trong số những cô gái anh quen biết suốt năm năm nay trên các miền đất Phú Vang, Phú Lộc, Hương Thủy, Quảng Điền... Ngày ấy, không phải trái tim non trẻ của một chàng trai mười tám đôi mươi khờ khạo và thiếu nhạy cảm với những cái nhìn đưa đón của các cô. Anh chỉ quan tâm có một điều duy nhất: chuẩn bị cho những trận chiến đấu ác liệt, anh nghĩ vậy. Số phận của con người từng giờ từng phút đùa giỡn với cái chết. Qua từng trận đánh Hồng đã trở thành một người lính từng trải, dày dạn chiến tranh. Anh chấp nhận sự hy sinh. Không hoảng sợ và rất tỉnh táo đề phòng nếu thấy rằng sự hy sinh là không cần thiết. Đạn biết tránh người chăng? Lớn nhỏ Hồng đã tham gia trên bốn chục trận. Anh chỉ mới bị thương nhẹ một lần vào bắp đùi, mảnh cối 61 của địch bắn phản kích ở thành phố Huế mùa Xuân 1968. Trong khi các lớp chiến sĩ kế tiếp nhau ngã xuống tô thắm lá cờ chiến công của tiểu đoàn. Hồng được tặng thưởng hai Huân chương chiến công. Một trận chống càn ở Dưỡng Mông, anh đã bắn cháy một xe tăng, một trận nữa, anh đã bắn chìm tàu chiến trên sông Hương. Anh cứ bình thản diễu qua diễu lại trước cái chết. Bom ném Vân Dương khẩu ĐKZ gãy nòng, cả tiểu đội hy sinh bốn, bị thương hai, Hồng chui lên từ trong đất thấm máu những người bạn và chỉ kịp lượm khẩu AK gãy báng nhả đạn vào bóng áo lính mặc đồ rằn ri theo xe tăng đang tràn lên chiếm làng. Sau đợt hai Mậu Thân 1968, trung đội hỏa lực ĐKZ còn lại vừa đúng năm người, cả đại đội hơn ba chục tay súng đưa nhau vượt phá Tam Giang ngược lên xanh.
Yêu đương làm gì cho thêm bận bịu, nặng gánh! Mong sao mình đừng trở thành một kẻ hèn kém, hoàn thành nhiệm vụ và còn sống để có một ngày được trở về nhìn lại quê hương. Hồng chỉ mong có thế, cố giữ như thế và ngấm ngầm thực hiện một lối sống "phi tình yêu", trước sự tán tỉnh của các cô gái và sự trêu chọc của bạn bè.
Cho đến lúc gặp Thùy, sự cố gắng ấy đã sụp đổ.
Ấy là một buổi chiều, ban chỉ huy đại đội 3 được huyện ủy mời sang họp. Anh Để, đại đội trưởng sốt, chỉ có một mình Hồng đi cùng cậu liên lạc. Ông Thọ yêu cầu bộ đội hỗ trợ cho địa phương một trung đội đi diệt ác phá kìm ở thôn Phú Ổ. Hồng hơi ngạc nhiên khi đồng chí bí thư huyện ủy giới thiệu với anh một cô gái vóc người nhỏ nhắn, cặp mắt to và sáng, có đôi lông mày hơi rậm, sắc. Cô đang ngồi nhặt thóc trong rá gạo. Cạnh đấy là một cậu bé mặt còn non choẹt. Cậu ta nằm chèo queo trên chiếc sạp ngủ ngon lành. Cô gái sẽ có trách nhiệm thi hành bản án của huyện về trường hợp tên Thố, ác ôn. Y đã khai báo hàng loạt cơ sở bí mật ở thôn Phú Ổ và còn trực tiếp chỉ huy trung đội quân phục kích hàng đêm đón đường bộ đội và du kích về làng.
Hồng ngồi im và nhận lệnh. Tuyệt nhiên chưa có một ấn tượng nào về cô gái tên Thùy cùng với cậu lính trẻ con tên là Ngọc Anh. Đêm đó, Hồng đi với trung đội 2, về Phú Ổ. Tới đầu làng, Thùy đã làm cho Hồng ngạc nhiên về khả năng chỉ huy tác chiến của cô, việc bố trí tổ chức ở các điểm. Thùy và Ngọc Anh vào nhà bắt tên ác ôn. Chỉ năm phút sau, Thố đã bị dẫn ra, hai tay trói quặt phía sau. Thùy thu được hai khẩu súng, một khẩu AR15 và một khẩu Côn. Cô còn đưa trung đội của Tống đi lấy gạo. Bữa ấy, bộ đội đại đội 3 được một phen gùi bở hơi tai. Người nào cũng cõng trên hai mươi cân gạo, ngoài ra còn đường, sữa, mì chay ông Phật, cá hộp...
Lên tới bãi đá Ồ Ồ, Thùy kéo Hồng ra một góc đưa một cây thuốc Ru-bi vàng và hai hộp sữa.
- Em gửi anh về biếu ban chỉ huy đại đội 3 nghe.
Hồng hơi ngớ người ra:
- Tiền bạc đâu mà Thùy cho anh em bộ đội thế này.
- Anh khỏi lo - Thùy cười và tự tay mở gùi Hồng nhét thuốc và sữa vào - Đây là quê hương em mà. Các anh mới phải chịu khổ nhiều.
Hồng ngồi lặng im, mân mê điếu thuốc lá được giấu đốm lửa đỏ rất khéo trong lòng bàn tay.
- Em nghe mấy đứa biểu anh Hồng ghét con gái tụi em lắm phải không?
Hồng thấy nóng mặt, chối đây đẩy:
- Đâu có, đâu có. Mấy o xạo đó...
Anh quen biết Thùy từ dạo ấy. Hai người gặp nhau trong những chuyến đi đồng bằng, hoặc sang liên hệ phối hợp công tác. Nhưng Thùy thường phải đi công tác luôn. Nhiệm vụ và công việc của cô là bám cơ sở. Có khi cô ở dưới làng một vài tháng trong những căn hầm bí mật, có khi vào ở hẳn trong Huế. Chỉ khi nào cần lên họp, báo cáo tình hình hoặc những tháng mùa mưa, hầm bí mật ngập nước, không thể trụ bám nổi, Thùy mới lên ở căn cứ trên xanh, học tập chỉnh huấn bồi dưỡng sức khỏe để chuẩn bị cho mùa khô sau.
Đã hai tháng nay, Thùy xuống "làng" bám hầm bí mật. Hồng chưa được gặp lại. Anh muốn tự mình đưa bộ đội mở một con đường mới đột về đồng bằng. Ngoài việc cứu đói cho bộ đội và cán bộ huyện, xã anh còn có ước muốn được gặp Thùy.
... Hồng và Ngọc Anh vớ bở. Vũng nước sâu chỉ quá đầu gối đông đặc đàn cá xanh. Ngọc Anh quay trở lại kéo cả tổ lên vây bắt cá. Hồng ngược dốc trèo lên gặp một con đường nhỏ. Cành cây khô, gai mây đổ rạp chặn lối. Đi thêm đoạn nữa, anh tới một vạt đất rộng có ba bốn căn hầm. Mưa nắng lâu ngày đất đắp mặt hầm đã bị sụp lở. Dưới gốc cây đinh lăng, có ba hòn đá đen nhẻm ám khói. Vô số những con kỳ nhông, có con to bằng bắp tay. Đàn kỳ nhông nghe tiếng chân người bước tới không hề tỏ ra sợ hãi. Chúng đứng lên những mô đất, nép mình sau tảng đá giương mắt và bộ gai lởm chởm trên sống lưng sù sì nhìn anh chăm chú. Anh nhặt được ở dưới bụi gai mây chiếc xẻng, cán đã mục.
Hồng lấy tấm bản đồ vùng Bắc Huế, tỷ lệ 1:10.000 và chiếc địa bàn Mỹ để xác định tọa độ... Nghĩa là xưa kia nơi đây, những người cán bộ địa phương đã từng chọn khe Đá Liếp làm hậu cứ? Chẳng lẽ con đường đưa họ về đồng bằng sẽ băng sau lưng phía Bắc dãy đồi Một Mái?