Cả đội dừng nghỉ đêm ở cạnh một khe nước mọc toàn cây dứa dại. Cường lượm được chiếc mũ sắt còn mới trong một bãi ngụy cũ. Chiếc mũ biến thành chiếc soong kho cá và nấu canh mộc nhĩ.
Nhấm nháp mấy hạt ngô bung với mấy con khô lạt muối, Tân kêu nhức đầu và leo lên võng đi nằm sớm.
Năm người lính đại đội 3 và Ngọc Anh chén sạch bay chỗ ngô bung và soong cá kho. Lâu lắm, họ mới có được bữa ăn khoái khẩu, tuy bụng vẫn còn thòm thèm.
- Chừ mà được mấy ống mì chay nấu với cá hộp anh Hồng nhỉ?
Ngọc Anh tặc lưỡi sau khi mút chiếc đầu cá cuối cùng. Cậu cầm tấm lá môn vừa trải ra làm đĩa đựng cá và nắm đũa làm bằng cọng lá nón vất tất cả xuống suối.
- Tối mai ra thấu đường chiến lược, về được làng tao sẽ cho tụi bây ăn sướng miệng mì chay.
Hồng cao hứng hứa trước mặt những người lính mặc dù có người ngồi đây chưa từng trông thấy ống mì chay ông Phật bao giờ.
Ngọc Anh cũng trổ tài ba hoa:
- Còn tôi xin hứa với các bạn sẽ chiêu đãi một bữa mè xửng Huế, hút thuốc Ru-by.
- Cả trà nữa chứ - Hồng nhắc.
- Dạ, cả trà. Trà Blao ướp hoa sói hẳn hoi.
Chiều nay, cả đội lên sườn gò cao. Mọi người đều đã nhìn thấy dãy đất đồng bằng hiện ra sau một hõm núi. Có lẽ đó là làng Văn Xá Thượng. Dãy đồi trọc ngăn cách với đồng bằng kéo dài tới sát sông Bồ, ở một mỏm ven sông thấy thấp thoáng có bóng nhà bạt của tụi lính ngụy. Phía bên sườn Bắc đồi Một Mái rõ ràng là tụi địch nới lỏng hơn sườn phía Nam, tuy nhiên, để ra tới dãy đồi trọc cửa rừng, họ còn phải đi khoảng bốn cây số giữa một thung lũng núi mịt mờ. Ai biết điều gì sẽ chờ đón họ trên đường này ngày mai và cả ở sườn đồi phía đông dãy đồi trọc. Mỗi gương mặt biểu hiện một dáng nét khác nhau nhưng đều thấm sự mỏi mệt sau một ngày trời cắt rừng. Hồng là người đứng lên trước tiên mở gùi lấy võng ra cột. Những ráng đỏ hoàng hôn lụi tắt dần trên nền trời phía Tây. Lấp lánh ngôi sao Hôm trên đầu núi Một Mái. Như thể có một tấm màn nhung đang phủ lên cánh rừng non, những cây tràm, cây thanh hao, dứa dại nhòa dần rồi tan loãng vào đêm. Để lại trên nền đất vô số ánh lân tinh phát ra từ những khúc củi mục, tiếng con suối chảy róc rách, tiếng cá quẫy và xuyên qua lớp lá cây rừng thưa thớt là một dàn sao trời sáng lạnh.
Rất gần, vọng lại tiếng nổ đầu nòng của trận địa pháo Tứ Hạ. Lát sau tiếng đạn pháo nổ thành dây phía bên kia dãy núi. Hồng đoán: tụi ngụy lại tiếp tục choảng pháo vào khu vực hậu cứ đại đội 3 đêm qua. Ngày hôm sau tụi thám báo trên đồi Chóp Nón thế nào chẳng xuống để kiểm tra khu vực pháo bắn. Những cọng lá môn vót, môn thục, những hầm hào bị sụt lở, con đường mòn sẽ là chứng tích xác nhận cho một căn cứ của Việt cộng. Mươi phút sau, trận địa pháo Tứ Hạ lại bắn. Lần này tiếng nổ lại kéo lên xa, nghe như mạn địa đạo sông Bồ. Bây giờ lại thêm một trận địa pháo trên Hòn Vượn. Với tầm hiểu biết của một người lính chiến kỳ cựu, bằng việc địch tăng cường tuyến phòng thủ cả binh lực và hỏa lực, tăng cường càn quét miền Tây - Hồng nghĩ - mặt trận Tân Bắc Huế đang bước vào một thời kỳ khó khăn ác liệt.
Những năm trước Mậu Thân, dầu sao địch chỉ mới tập trung giữ các đô thị, các điểm có ý nghĩa chiến lược và đánh phá ven thành phố, vùng đồng bằng đông dân cư và đặc biệt là cố gắng giữ cho được trục đường giao thông chiến lược số 1. Còn cả một vùng nông thôn rộng lớn trải dài trên sáu huyện Phong, Quảng, Hương Trà, Hương Thủy, Phú Vang, Phú Lộc địch không kiểm soát nổi, bỏ ngỏ cho lực lượng vũ trang giải phóng làm chủ cả đêm và ngày. Lâu lâu mới có một trận càn, còn chủ yếu địch dùng hỏa lực pháo binh, máy bay khống chế. Nhưng rồi chính tụi Mỹ và ngụy đã nhận ra những sai sót không thể tha thứ về việc thả lỏng vùng nông thôn đồng bằng. Bài học rút ra từ cuộc tấn công và nổi dậy của quân giải phóng và đồng bào nổ ra vào mùa Xuân 1968. Chúng bừng tỉnh khi phải tháo chạy vào cố thủ trong khu Mang Cá và phía Nam Huế. Quân giải phóng và lực lượng cán bộ chính trị địa phương đã chiếm giữ được một vùng nông thôn rộng lớn, và thành phố trong hai mươi sáu ngày đêm.
Hồng còn nhớ rõ trong cuộc họp toàn Đảng bộ tiểu đoàn trên căn hầm địa đạo 310. Đảng bộ chỉ còn lại mười sáu đảng viên qua hai đợt tấn công về Huế! Hai phần ba số đảng viên cũng như già nửa số cán bộ chiến sĩ tiểu đoàn đã nằm lại trên đất Huế, Phú Vang, Phú Lộc, Quảng Điền, Hương Thủy. Tiểu đoàn trưởng hy sinh. Bí thư Đảng ủy tiểu đoàn hy sinh. Đảng ủy viên bảy còn lại ba. Có người lúc xuất quân xuống đánh giặc mới chỉ là tiểu đội trưởng, trung đội phó, lúc lên rừng đã là đại đội trưởng, chính trị viên. Đợt hai đánh về Phú Vang, cả tiểu đoàn đã phải gánh chịu một tổn thất quá lớn.
Đại đội trưởng Phúc vừa khóc vừa kể tên từng người chiến sĩ của đại đội 4 đã hy sinh.
- Phải chăng, chúng ta đã tính toán chưa thật kỹ khi tấn công về Huế, đợt 2? - Anh hỏi và mắt trừng trừng nhìn vào phó chính ủy trung đoàn ngồi dự cuộc họp và thảo luận.
Hồng ngồi im lặng nghe. Anh mới được đề bạt lên làm chính trị viên phó đại đội vài tháng nay. Anh đã có nhiều băn khoăn, suy nghĩ. Mấy người bạn cùng quê Thanh Hóa với anh đã hy sinh. Có người cùng làng, cùng huyện, cùng đầu quân một ngày huấn luyện dưới chân núi Nưa, rồi cùng nhau lên những chiếc xe tải bưng kính chạy về hướng Nam giữa đêm khuya một ngày cuối năm 1964. Ngày ấy đi chiến trường B còn là điều bí mật. Vào chiến trường, từng người lần lượt bị thương, hy sinh qua các trận đánh. Ngồi trong hầm đất kiên cố dưới tán cây rừng mà Hồng có cảm giác hụt hẫng đến kỳ lạ. Khi nghe câu hỏi đặt ra của Phúc khá đột ngột anh hơi hoảng. Phúc ăn nói táo tợn nhưng rõ ràng những điều Phúc nghĩ là thực lòng. Phó chính ủy trung đoàn, một thiếu tá bị chột mắt trái. Vết đạn ở trận Thanh Hương đã làm hại ông. Con mắt giả do các bác sĩ ở bệnh viện Mắt Hà Nội lắp cho ông khéo đến nỗi mới gặp ông lần đầu, không để ý, ít ai nhận ra được là con mắt giả. Ông ngồi cúi mặt xuống sổ tay, ghi chép mọi ý kiến phát biểu.
Sau câu nói của Phúc, không khí cuộc họp lắng đi một lúc. Mãi sau phó chính ủy mới ngước mặt lên nhìn khắp lượt mọi người:
- Các đồng chí! Tôi xin cảm ơn các đồng chí đã nói ra những suy nghĩ trung thực. Tôi không muốn nói ai sai, ai đúng và cũng không có ý phê bình các đồng chí đâu. Chỉ có thể qua cuộc chiến đấu cực kỳ anh dũng của chúng ta ở Huế, ở Trị Thiên và các nơi khác trong toàn miền, qua những suy nghĩ của chính các đồng chí hôm nay, cấp trên mới có điều kiện xem xét, đánh giá một cách đúng đắn nhất chiến dịch lịch sử này. Riêng tôi, tôi có suy nghĩ như thế này: Tương quan giữa ta và địch có một sự chênh lệch lớn trên chiến trường Thừa Thiên. Về bộ binh, pháo binh, xe tăng, máy bay thằng địch đông hơn ta gấp năm lần. Mỗi viên đạn ĐKB, cối 82, cho chí một viên AK của bộ đội ta đánh địch đều thấm đẫm máu và mồ hôi của chiến sĩ chúng ta. Bắn một viên đạn ta phải tính toán một viên. - Chợt ông hỏi:
- Có đúng vậy không, ông Phúc, ông Để?
- Vâng, đúng vậy - Phúc đáp gọn lỏn.
- Còn thằng địch - ông nói tiếp - chúng nó có thể vãi ra hàng xe đạn nếu thấy cần thiết. Mỗi đêm chúng chỉ bắn hú họa lên rừng thôi cũng vài trăm quả đạn pháo 105 ly.
Như thể chứng minh cho lời phó chính ủy, tiếng pháo địch dội âm vang ngả ngoài Khe Trái. Đợi cho tiếng nổ dứt, ông mới nói tiếp:
- Chúng ta vẫn cứ tấn công và nổi dậy đánh địch. Không chỉ có trung đoàn ta đánh địch mà các trung đoàn bạn cũng đánh địch. Tấn công về Huế không thể coi là sự liều lĩnh mà là đòn tấn công có tính toán, có cân nhắc trong cục diện chung của cả chiến trường. Chúng ta đã làm cho kẻ địch hiểu rằng các lực lượng vũ trang giải phóng có đủ sức mạnh chiếm các đô thị và các điểm quân sự lớn của chúng, đủ sức giữ thành phố nếu có sự hỗ trợ nổi dậy của quần chúng cách mạng - Giọng phó chính ủy trung đoàn lạc đi - Không! Máu của cán bộ chiến sĩ ta, máu của đồng bào nhuộm thắm trên mảnh đất Phú Vang, Phú Lộc, trên cầu Tràng Tiền, trong Đại Nội... không phải là vô ích. Các đồng chí thương khóc bạn bè đồng chí mình. Tôi - tôi cũng khóc cho cán bộ, chiến sĩ của mình chịu nhiều tổn thất hy sinh to lớn. Nhưng chỉ có máu đổ trong cuộc tấn công và nổi dậy này cùng với máu đổ suốt mười bốn năm nay chúng ta mới hy vọng cắm được lá cờ chiến thắng vĩnh viễn trên đỉnh Ngọ Môn, giữa lòng cố đô Huế ngày mai.
Mọi người đều thấy ông phó chính ủy trung đoàn rút chiếc khăn bông xám từ trong túi áo bà ba lau mắt. Năm mươi hai tuổi, gần trọn một đời lính ông vẫn chưa có một góc gia đình riêng. Nghe đâu ông còn một bà cô ruột, đang đi tu ở một ngôi chùa trên Kim Long. Bữa về Huế, ông cũng chẳng có thời giờ ghé lên thăm...
Hồng trở mình trong chiếc võng nilon xanh, phảng phất mùi thơm của xà phòng. Anh áp má xuống võng, trùm tấm dù hoa kín đầu. Anh có cảm giác như bắt gặp hương thơm của Thùy gửi lại.
Buổi tối, trước khi đi đồng bằng, cô lấy cớ sang coi tấm bản đồ quân sự ở ban chỉ huy đại
đội 3.
- Anh Để đi mô anh Hồng? - Thùy hỏi lúc gặp anh đang giũ áo dưới suối.
- Sốt nằm chèo queo trong hầm kia kìa.
- Vậy Cường đâu? - Thùy ngước mắt nhìn anh đăm đăm.
- Cũng sốt.
- Đêm nay em đi đồng bằng đây!
- Đêm nay anh cũng đi, về Văn Xá lấy gạo.
Thùy lắc đầu:
- Không, em đi ở lâu dưới ấy kia, chưa biết bao giờ lên.
Hồng đùa:
- Vậy hả, Thùy cho anh gửi lời chào bà con đồng bằng nhé.
- Anh ác lắm... - Thùy nói nhỏ, mặt cô xịu xuống.
- Anh đùa Thùy một chút mà... - Hồng làm lành - Thùy yên tâm. Anh sẽ tổ chức bám địch đến tới đầu làng Liễu Nam cho em, rồi chúng ta sẽ chia tay ở đó.
- Mai sớm Ngọc Anh lên em sẽ gửi cho Cường hộp sữa.
Hồng thừa hiểu chữ "gửi" đây là Thùy gửi cả cho Anh và cho Cường. Gần nửa năm nay, Thùy đã biến Cường thành sợi dây liên lạc giữa hai người. Thùy quý mến cưng chiều cậu liên lạc của đại đội 3 vừa bước sang tuổi 18. Cường trước ở trung đội 2, thấy cậu ta nhanh nhẹn, đánh giặc được, ban chỉ huy đại đội quyết định rút Cường lên làm liên lạc viên. Trong thâm tâm, Hồng muốn để Cường có điều kiện học tập cách tổ chức và chỉ huy. Cũng là một biện pháp đào tạo dần lực lượng cán bộ kế cận cho đại đội, cho tiểu đoàn sau này. Cường về đại đội 3 chưa đầy một năm, tham gia sáu trận đánh. Nhưng chỉ qua trận tập kích tiêu diệt cụm hỏa lực của đại đội bảo an nằm phục kích ở đầu làng Phú Ổ, tạo điều kiện cho hai mũi của đại đội áp sát vào làng tiêu diệt cả đại đội bảo an, Cường đã được những tay lính kỳ cựu vốn khó tính của đại đội nể phục. Và cách đây chưa đầy hai tháng, Cường lại tham gia một trận đánh phục kích ở dốc Đu, tiếng tăm của cậu liên lạc càng nổi. Bữa ấy Cường và hai người ở tiểu đội bộ binh được phân công đi bám địch để buổi tối cho đơn vị xuống đồng bằng gùi gạo. Một đại đội của trung đoàn 54 ngụy phục ngay tại sườn đông dốc Đu. Trời còn sớm, địch chỉ có một tổ chốt trên đỉnh đèo còn toàn bộ dạt xuống khe trốn nắng.
Tổ bám đường không phát hiện ra địch. Thằng lính ngụy đợi cho cả tổ đến gần mới bắn! Người đi trước bị đạn vào cánh tay. Cường đi thứ ba, dạt tránh vào sau một tảng đá, bắn kịp thời một phát B.40 giải thoát cho Xu. Phát đạn B.40 của Cường đã xóa sạch tiểu đội chốt tiền tiêu của đại đội ngụy.
Nghe súng nổ loạn xạ, tụi lính ở dưới khe chạy nháo nhào lên đồi bắn hoảng loạn và gọi pháo bắn chặn đường. Cường bị lạc, đi lang thang trong rừng suốt hai ngày trời cho đến khi gặp được đường dây của Thùy đón khách từ trên sông Bồ trở về.
Nhưng có lẽ Thùy thương Cường bởi lẽ cậu ta hiền lành như con gái, gương mặt bầu bĩnh, tóc húi cao. Có một dạo, tổ đường dây của Thùy chưa đào kịp hầm phải ở nhờ hậu cứ đại đội 3. Nhiều lần Hồng bắt gặp Thùy ngồi vá áo quần cho Cường và kể cho cậu em nghe về Huế, về dòng sông Hương, về những đền đài lăng tẩm của vua chúa nhà Nguyễn. Biết Cường và Nam là bạn học, cùng hết bậc tú tài, Thùy phục lắm. Cô còn bắt Cường phải kể về cái thị xã nhỏ bé nằm bên dòng Trà Lý cho nghe và ao ước một ngày nào đó được ra thăm Hà Nội. Một lần Thùy bảo:
- Anh Hồng, răng anh không nói chi cả? - Thùy ngước lên nhìn anh, cười để lộ hai lúm đồng tiền nhỏ. - Anh kể về Nông Cống quê anh đi.
- Biết kể chuyện chi được...? - Hồng cười.
Cường đế thêm vào:
- Quê hương của Bà Triệu mà anh Hồng bảo không có chuyện chi, phải không chị Thùy?
- Anh Hồng giấu chị em mình đó Cường...
Qua lời mạch lạc của cậu liên lạc, dần dần Hồng hiểu được tình cảm của Thùy dành cho anh. Những lá thư "trao đổi công tác đặc biệt" cũng qua Cường mà đến được Thùy hoặc đến anh...
Tự nhiên Hồng thấy lo cho Thùy. Giá như Hồng được làm thay những việc của Để, bám Tứ Hạ thì nhất định anh sẽ tìm mọi cách liên lạc với Thùy. Ai biết được điều gì bất thường sẽ xảy ra dưới các làng xanh xa tít kia?