Ánh nắng buổi sớm xuyên qua khe cửa chiếu vào tạo thành những vệt dài song song chạy suốt dọc căn buồng.
Ngoài mảnh sân đất, đàn gà mẹ con mới xuống ổ được vài hôm đang nhặt những hạt tấm. Mười bốn chú gà con như mười bốn cục bông chạy lăng xăng quanh gà mẹ. Như thể trêu tức bầy gà, con chó mực nằm vẫy đuôi trên hè thỉnh thoảng lại nhảy bổ xuống sân sủa ăng ẳng. Đàn gà con sợ hãi chạy táo tác, rồi dồn vào núp dưới đôi cánh của mẹ. Chị gà mái cũng không vừa, quay đầu lại về hướng chú chó con thủ thế. Chị ngỏng đầu, giương đôi cánh chực nhảy bổ vào đối thủ. Chỉ mong có vậy, chú mực nhảy tót lên bờ hè nằm vẫy đuôi nhìn mẹ con đàn gà tỏ vẻ thích thú.
Phía ngả chợ La Chữ chợt rộ lên tiếng xe lam ầm ì. Tiếng xe đã đánh thức Thùy trở dậy. Cô nhìn ra nhà ngoài thấy cửa khép. Ngoài vườn, Hạnh đang lui cui vun lại những vồng sắn mới lên ngang thắt lưng, sau những ngày mưa rã đất. Chiếc áo lụa trắng phơi trên dây - dấu hiệu bình yên, Thùy quay trở lại ngồi xuống mép giường cầm lược gỡ tóc. Cô mới trở về lúc ba giờ sáng. Gần trọn đêm, lội băng qua các cánh đồng Văn Xá, Liễu Thượng, vượt về Phú Ổ bùn nước có chỗ tới ngang bắp đùi, chân tay cô mỏi rã rời.
Dì Ba Xuân đón Thùy ở hàng rào ngoài ấp. Hai dì cháu gài lại đoạn rào dây thép gai bùng nhùng, vuốt những khóm lúa bị bàn chân xéo ngã, xóa dấu trên luống đất trồng kiệu. Dì Ba Xuân cẩn thận đến nỗi, giá mai sớm tụi lính địa phương có đi kiểm tra cũng khó có thể mò ra chỗ rào bị đột thủng, lần ra dấu vết lạ. Soong cơm nguội, cả nhà ăn từ chiều vẫn còn cùng với bát canh mướp đắng. Thùy ngồi ăn cơm trong bóng tối nhập nhòa của cây đèn dầu chỉ vặn nhỏ bằng hạt đậu để khuất trên bàn thờ Phật. Dì Ba Xuân âm thầm ngồi đãi đậu để tới bốn giờ hông nồi xôi buổi sáng đem bán ngoài chợ La Chữ. Từ Thanh Lương chuyển về, Thùy nằm ém trong hầm nhà dì Ba đã được hơn mười ngày. Ba kỳ hẹn bắt liên lạc với trên núi, cô đi đều phải quay trở về. Ngồi chờ suốt từ mười giờ khuya đến một giờ sáng không có ai tới. Có nghĩa là đường lên xanh tắc. Hàng ngày, qua ô cửa sổ trong căn buồng nhà dì Ba Xuân và theo tin Hạnh, con gái dì Ba, báo: từng đoàn Công-voa chở lính, chở quân cụ cắt ngang qua đường lộ rẽ lên con đường chiến lược chạy men theo chân núi, địch đang xây dựng căn cứ Hòn Vượn, đồi Chóp Nón. Hạnh nghe lỏm được qua câu chuyện tụi lính kháo nhau ngoài chợ. Thùy phải nằm lại lâu ở nhà dì Ba cũng là thế kẹt. Mặc dầu, đây là cơ sở khá chắc chắn.
Với cái vỏ bọc ngoài, có chồng bị "Việt cộng bắt treo cổ vì tội làm gián điệp!", con trai là trung úy truyền tin ở căn cứ hải quân Nha Trang, dì Ba Xuân có đủ uy quyền và sự tin tưởng với đám hội đồng xã và đám lính trong làng.
La Chữ, một ấp chỉ cách Huế chừng bảy cây số đường chim bay. Một khoảng cách quá gần cho những trận càn. Chợ La Chữ sầm uất, thường trực ở đây có một trung đội lính nghĩa quân chốt gác. Còn đám lính bảo an hoặc các đơn vị bộ binh của sư đoàn 1 mỗi khi đi càn rừng cũng thường chọn La Chữ, Phú Ổ, Văn Xá Trung, Bồn Trì, Bồn Phổ,... làm nơi tập kết và đóng sở chỉ huy trung đoàn dã ngoại.
Ngôi nhà của dì Ba Xuân cách chợ chưa đầy hai trăm mét. Nhưng một khi đã nằm trong căn buồng thưng gỗ ván của dì Ba có thể coi như an toàn. Hầm bí mật đào ngay dưới gầm giường của Hạnh. Ròng rã hai tháng trời, hai mẹ con dì Ba Xuân bí mật đào hầm. Cùng lúc, dì thuê đào giếng lấy nước. Lớp đất moi hầm bí mật hòa lẫn cùng với đất đào giếng. Thùy và ông Thọ về trụ bám dưới đồng bằng, chỉ ban ngày có động mới phải xuống hầm, còn thì cứ ngồi im trong căn buồng. Hạnh nhận may đồ gia công cho mấy sạp hàng ngoài chợ. Cô may ở nhà vừa lo việc cơm nước, vừa canh chừng.
Ông Thọ và Thùy đã chọn cơ sở này làm một địa điểm liên lạc, là nơi trụ bám để trước khi vào Huế hoặc thọc xuống vùng sâu ven sông Bồ. Bài học tổng kết công tác xây dựng cơ sở mật thành phố và các vùng ven được tính bằng xương máu, người bí thư huyện ủy đã rút ra được sau chiến dịch Mậu Thân. Sự phấn khích của những cơ sở cách mạng vốn được gây dựng từ hàng chục năm nay cùng với sự chỉ đạo thiếu nhạy bén kịp thời của huyện ủy, thành ủy khi các đơn vị từ trên căn cứ tràn về chiếm lĩnh các làng đồng bằng và thành phố, tưởng rằng thuận buồm xuôi gió sẽ giữ được Huế, nên những quả đấm chìm tung ra gần hết để huy động vào cuộc chiến đấu. Kẻ địch tỉnh đòn. Chúng tập trung quân tấn công lại lực lượng vũ trang giải phóng. Hầu hết các xóm ấp vùng đồng bằng, địch tiến hành một chiến dịch bình định tàn khốc để "quét sạch mầm mống cách mạng" vốn lâu nay ẩn khuất. Các cơ sở vỡ lung tung. Người bị giết hại, người bị bắt bớ tù đầy, có gia đình cuốn cả nhà lên xanh, theo bộ đội. Còn số đông đồng bào có thiện cảm ân nghĩa với những người lính Vệ quốc đoàn năm xưa càng hiểu rõ hơn anh bộ đội giải phóng hôm nay. Họ chỉ là một, chẳng ai ngớ ngẩn mù quáng tin vào lời tuyên truyền ngu ngốc: "Bảy Việt cộng leo một cọng đu đủ không gãy" (!) "Bộ đội ở trên rừng có đuôi!"... Bà con còn nhận ra con em của mình, láng giềng hàng xóm lâu nay bất ngờ có mặt trong hàng ngũ quân cách mạng. Họ còn được chuyện trò với các anh bộ đội từ miền Bắc vô, mặt trẻ măng dễ thương. Các chú bộ đội giải phóng ngồi thâu đêm kể chuyện miền Bắc xã hội chủ nghĩa cho các bà mẹ, các chị, dạy những bài ca cách mạng cho đám thanh niên nam nữ. Mỗi buổi chiều khi biết chắc không còn địch càn, cả làng xanh um khói bếp, tiếng heo kêu í óe. Từng chảo cơm to bốc hơi mù mịt. Các mẹ, các chị ngồi thành dãy dài vắt cơm cho bộ đội để kịp giờ hành quân hay chuẩn bị cho ngày mai chống càn. Trên khắp các ngõ xóm, ánh đèn đuốc sáng choang, tiếng cười nói râm ran... Bây giờ, chính những người dân ấy ngơ ngác. Bộ đội rút đi rồi. Bom trút xuống làng. Pháo cấp tập bất kể ngày đêm. Nhà cháy, người mất. Cùng với những gương mặt lỳ lợm khoác bộ đồ rằn ri sục sạo nhòm ngó vào từng kẹt nhà, từng ngõ xóm. Sáu giờ chiều, cửa ngõ mọi nhà đã đóng im ỉm. Làng An Đôn, làng Liễu Nam, làng Văn Xá Thượng, làng Cổ Bi, Hiền Sĩ, Lại Bằng dân bị quét sạch dồn về dưới đường lộ. Bảo an, lính nghĩa quân phòng vệ dân sự - ba cấp lính nghĩa quân - có vũ trang cùng với các sư đoàn bộ binh vùng I chiến thuật canh giữ đồng bằng. Chưa đủ! Những toán lính "mũ nồi xanh" - đồng bào vùng ven gọi bằng danh từ "Mỹ lết" - tăng cường cho các đoàn bình định ở xã. Vẫn chưa an tâm! Thêm một tuyến phòng thủ bằng rào dây thép gai cao hai mét dài từ ngã ba An Hòa ra thấu sông Bồ chắn sườn phía tây con lộ. Vẫn chưa an lòng! Sư đoàn lính Mỹ bay lên chiếm cứ các cao điểm miền Tây Bắc Huế, càn rừng...
Và có lẽ..., cũng chỉ có ông Thọ cùng với một vài người trong cơ quan thành ủy biết được sự thật về vụ cách mạng xử tên xã trưởng Thừa và Ba Xuân vào một đêm đã lâu. Một đơn vị vũ trang huyện về đánh chiếm La Chữ. Tất nhiên, bữa đó chẳng gặp địch. Thằng Thừa ác ôn khét tiếng bị bắt. Dì Ba Xuân và Hạnh đều bị trói chặt vào chân giường và bịt mắt. Ba Xuân và tên Thừa ác ôn được giải ra chợ La Chữ để tòa án cách mạng xét xử. Rất đông bà con trong ấp tới dự. Sau khi vạch rõ tội trạng của Ba Xuân và tên Thừa, tòa án cách mạng công bố xử tử, việc đó sẽ được tiến hành ở trên núi. Vợ Thừa vật đầu kêu khóc. Ba Xuân giữ thái độ im lặng, ông đi cách tên Thừa một quãng trước những đôi mắt vừa ngạc nhiên vừa khiếp sợ của dân làng La Chữ.
Dì Ba Xuân giấu bặt chuyện lên xanh của chồng. Những ngày Tết Mậu Thân, dì không được gặp ông. Bà chỉ nhận được một lá thư. Ông báo tin đang đưa một cánh quân đánh vào phía Nam Huế. Ông Thọ gặp riêng dì Ba động viên:
- Chú Ba giờ đã là "cấp côi" rồi đó cô Ba, cô phải ráng tiến cho mau kịp chú nó nghe!
- "Cấp côi" là ra răng, anh Bốn?
Ông Thọ cười giơ cả lợi. Dì Ba Xuân xấu hổ đỏ mặt. Chỉ cần biết tin chồng còn sống và mạnh vậy là mừng rồi. Việc Ba Xuân là cán bộ nằm vùng, mãi sau này dì Ba mới cho cậu con trai trung úy truyền tin và Hạnh biết. Khi đó Hạnh mới được kết nạp vào chi bộ đảng bí mật vùng ven.
Tuần hai lần, dì Ba Xuân theo xe lam đi Huế mua nếp, mua đậu về nấu xôi. Mỗi chuyến đi theo những ngày đã quy định, dì mang thư của ông Thọ gửi xuống theo đường "hộp thư chết" đặt ở ngôi mộ ngoài làng hoặc trực tiếp nhận thư của Thùy chuyển. Dì Ba giao thư đó cho một người chủ tiệm vải ở chợ An Cựu.
Đến ngay Hạnh cũng không biết địa chỉ đó. Nhiệm vụ chủ yếu của cô là thâu lượm tin tức quanh vùng theo sự chỉ dẫn của mẹ và ra "hộp thư chết" lấy thư từ trên căn cứ chuyển về. Hai năm nay đường dây ở thành phố thông suốt. Dì Ba Xuân hiểu và quý Thùy như con đẻ. Nhiều bận gặp cô đi cả đêm trở về, mặt mũi phờ phạc, dì ngồi bó gối trên giường ứa nước mắt. Cùng hoạt động nhưng dì và Hạnh đều khỏe, nhẹ hơn Thùy nhiều. Ông Thọ cấm ngặt, coi đó là kỷ luật Đảng nhưng dì Ba Xuân thỉnh thoảng vẫn nhắn tin cho mẹ Thùy về tình hình của hai đứa con bà. Thùy về ở trong căn hầm nhà dì là một dịp để dì Ba Xuân và Hạnh chăm chút cho cô sức khỏe. Dì Ba còn bắt Hạnh đi với Thùy cho quen đường đất ban đêm, cũng là để cho cô học hỏi thêm ở Thùy cách thức hoạt động. Bằng linh cảm trực giác của một người mẹ hoạt động giữa nanh vuốt của kẻ thù, dì Ba Xuân tính đường xa cho con gái...
Hạnh đẩy cửa, ngó vô buồng:
- Chị dậy rồi hả? Có cháo mạ em để trong bếp đó.
- Chị còn no. Mới ăn hồi đêm.
- Có tin tức chi không, chị Thùy?
- Chưa có tin chi cả.
- Nè, hồi đêm chị có nghe tiếng súng nổ hướng cửa rừng dốc Ồ Ồ không? - Hạnh hỏi lo lắng.
- Em ở nhà cũng biết hả? Chị có nghe - Thùy đáp.
- Không biết có chuyện chi. Liên lạc cho tới bữa ni lỡ hẹn nửa tháng rồi.
- Hay bên bộ đội vấp phục kích?
- Cũng chưa biết chừng. Mười ngày trước chị gặp Châu đưa nhóm anh Để đi địa hình, thấy bảo vẫn chưa lên căn cứ. Địch chốt đầy các ngả đường.
- Ngó bộ tình hình căng hung.
Thùy nhìn Hạnh, đôi mắt cô lộ rõ vẻ băn khoăn.
- Chị Thùy xuống hầm nghỉ đi. Em ra làm, ngồi canh chừng.
Dưới hầm, dì Ba Xuân đã kê sẵn một tấm ván, trải chiếu. Mưa mấy ngày hơi đất ẩm toát ra lạnh giá. Qua lỗ thông hơi, Thùy vẫn nghe thấy rõ tiếng chiếc máy khâu chạy lạch xạch phía trên nhà. Cô chẳng thể nào ngủ nổi. Bao mối lo vằn vặt. Cô trở dậy bấm đèn pin treo trên bức vách lôi từ trong chiếc ruột tượng may bằng dù hoa ra cuốn sổ bìa xanh hí húi viết chép... Suối tóc Thùy dài, đen óng ả buông xõa. Người ta nói con gái uống nước suối, tắm gội nước suối thường rụng tóc, da xanh bủng như người mắc bệnh. Cô không tin. Sốt rét hành bao nhiêu trận, có trận nằm liệt trong hầm hàng nửa tháng. Hai tháng sau mới lại sức. Ăn uống toàn nước khe, suối, đi rừng khát quá có khi tìm vũng trong, hai bàn tay vốc nước uống. Uống thỏa thuê cho đã thèm. Tóc Thùy vẫn dài, xanh, óng mượt. Nước da cô sau kỳ ăn giả bữa lại trắng hồng, bắp chân, bắp tay to ra, chắc khỏe. Đạp rừng leo dốc cả ngày, chiều tới lưng áo chưa kịp khô, những cậu con trai lo xuống suối tắm giặt, kiếm cây mắc võng, cô vẫn dư sức đi lượm củi, hái mớ rau rừng nổi lửa nấu cơm ăn buổi tối.
Hơn ba năm xa Huế, Thùy đã tự đánh mất đi khá nhiều nét vẻ của cô nữ sinh Đồng Khánh ngày trước. Một thời mơ mộng và vô tư. Cuộc đời với biết bao biến động cũng như nỗi lo toan của mẹ ở ngoài tâm tưởng cô. Thích một kiểu áo dài trắng do chính tay chủ tiệm Hoài dưới chân cầu Gia Hội may cắt. Ngồi trong lớp học một tai nghe thầy giáo giảng bài một tai nghe ngóng ngoài cửa sổ, đôi mắt như hút lấy chiếc lá bàng khô vừa bứt khỏi đọt cây bằng lăng trên mái ngói ẩm mốc. Tan học, năm bảy cô gái đạp xe dọc theo con đường Lê Lợi xanh rợp bóng cây. Thỉnh thoảng các cô cười phá lên vì biết ở đằng sau xe mình có những anh con trai bám đuôi. Những buổi chiều Huế bảng lảng ngây ngất. Học không vô. Đọc sách cũng không nổi. Tiếng thầy trôi tuột vào trong không gian. Các cô cậu học trò chỉ thấp thỏm chờ tiếng trống tan trường. Hàng trăm chiếc xe đạp. Cả một rừng áo dài trắng, áo dài xanh da trời túa lên hai cây cầu bắc qua sông Hương đổ về các ngả trong Thành nội, qua Bãi Dâu, Gia Hội, ngược lên Kim Long...
Ở tuổi mười tám, Thùy đã có những anh con trai để mắt tới. Một giáo sư dạy văn bên Quốc học sang dạy giờ cho trường nữ. Một vài bận năm sáu thầy trò đi ăn chè trái cây trong Thành nội. Và chỉ một lần họ gặp nhau tay đôi trên cùng một chặng đường từ Thư viện Quốc gia về nhà Thùy. Nhưng những giờ giảng của chàng trên lớp dường như có một ma lực cuốn hút, khiến cho cô mê mẩn. Sự hứng thú của giờ Quốc văn chuyển nhanh sang sự mong mỏi đợi chờ. Những giờ ấy, cô ngồi chăm chú nhưng thực ra trang vở luôn luôn trắng tinh. Và mỗi khi bắt gặp cái nhìn của thầy soi vào mình cô lại vội cúi xuống. Tiếng đế giầy của thầy nện trên nền xi măng đi lướt qua. Cô run lên, chiếc bút bi ghi nhoay nhoáy trên cuốn vở vừa vội lật sang trang mới. Chính cô cũng chẳng hiểu mình ghi cái gì.
Con Thanh ngồi bên cạnh chí nhẹ vào cánh tay:
- Si chàng rồi phải không?
Thùy liếc xéo cô bạn, tỏ vẻ khó chịu nhưng đôi gò má lại bừng đỏ.
Phải, chính trong cái buổi chiều ấy, trên con đường đá vào Đại nội hoang vắng, Thùy đạp xe thong thả bên cạnh ông thầy dạy Quốc văn từ lúc vượt qua cổng thành đã vấn lên đi sát cạnh. Không gian yên tĩnh. Chỉ có một âm thanh duy nhất là tiếng đàn piano vẳng ra từ khu nhạc viện.
- Trời đẹp quá. Hay ta xuống đi bộ một chút Thùy?
- Dạ, tùy thầy.
Khoảng cách giữa hai người là một cái xe mi ni. Chẳng hiểu sao mắt cô cứ như bám vào cái bàn tay trắng xanh, có những ngón thon nhỏ của chàng.
- Xuân Diệu có một bài thơ rất hay. Tôi thích nhất là những lúc như thế ni. Bài Chiều, Thùy biết bài đó không?
- Dạ biết.
Cô vẫn không dám ngước sang để nhìn vào gương mặt của người đàn ông đi bên cạnh. Cô nhìn thẳng con đường và thấy nửa gương mặt của chàng hơi khắc khổ, ít ra là riêng cô cảm thấy như vậy, mái tóc chảy mượt, và thỉnh thoảng chàng lại gật nhẹ cái đầu.
Ông thầy dạy Quốc văn cất giọng đọc bài thơ, nhưng cố ý nhấn mạnh vào các chữ cuối...
- Chẳng lẽ thầy buồn? - Cô hỏi và khẽ mỉm cười.
- A... Tôi thường hay có những cảm giác như vậy.
- Một cảm giác tâm lý! - Thùy reo lên.
- Đúng rồi, một "dezected" (1)!
-----
(1) Sự buồn chán.
Cả tháng sau Thùy vẫn còn thấy nôn nao, xao xuyến khi nhớ buổi đi chơi "ngẫu hứng" như cô hằng mong mỏi ấy. Chàng không dạy bên trường nữ nữa. Thay vào đấy là một nhà thơ già có giọng giảng bài buồn tẻ, hay chêm vào trong bài học những câu luân lý. Giờ Quốc văn vô hình trung trở thành một hình phạt đối với cô. Cô cũng ít khi gặp chàng. Vào những buổi chiều không vướng bận, một mình Thùy lững thững đạp xe vào Đại nội. Vẫn là sự yên tĩnh đến hoang vắng. Cô ngồi hàng giờ dưới chân lầu "Tàng Thư", bên bờ hồ giữa những bông sen ngát hương, nghe tiếng cá đớp động dưới chân bèo buồn vơ vẩn. Một buổi chiều như thế, khi cô vừa dắt xe đạp trở về nhà, tới đầu đường ngoặt suýt nữa cô đã xô phải một cặp chở nhau bằng Honda vừa xuất hiện. Chiếc Honda thắng gấp. Cô gái ngồi phía sau ôm chặt lấy eo người con trai, áp má vào bờ vai. Người con trai ấy chẳng phải ai xa lạ chính là thầy dạy Quốc văn.
- Ủa, Thùy à? - Ông thầy dạy Quốc văn kêu lên nho nhỏ.
- Dạ... Dạ... - Thùy ngỡ ngàng trong giây lát. Cô chợt hiểu cả.
Ông thầy dạy Quốc văn vẻ mặt tươi tỉnh, quay lại nói với cô gái ngồi phía sau xe:
- Đây là cô học trò của anh, bên Đồng Khánh.
Thùy bắt gặp luồng mắt của cô gái nhìn mình thăm dò. Bên bờ mi của cô ta hằn rõ đường kẻ chì xanh và một lớp phấn hồng phớt trên má.
- Còn đây là người bạn dạy cùng trường với thầy. Thùy đi dạo hả?
Giọng ông thầy Quốc văn tỉnh bơ, khiến Thùy cũng không ngờ.
"Bữa ni chàng lại xưng thầy với ta! Ta chỉ là một con học trò bé bỏng, dại khờ đáng thương". Thùy muốn phá lên cười. Nhưng rồi cô lẳng lặng đạp xe. Đạp miết. Cô không muốn biết mình đã đi qua những con đường nào. Có đứa bạn ở đâu đó gọi Thùy. Mặc! Trời tối đã lâu rồi, Thùy thấy mình đang ngồi trên tấm ghế đá ở công viên trước cổng trường đại học Văn khoa. Cô khóc. Lần đầu tiên trong cuộc đời trái tim non trẻ của cô nức nở.
Bây giờ nhiều lúc Thùy phải ngạc nhiên về sự đổi thay quá nhanh trong con người mình. Cô đã trở thành một cô gái cứng cỏi và gan góc. Đêm đêm băng trên những cánh đồng khuya, khẩu AK báng gấp treo trước ngực, cô không còn bị ám ảnh nỗi sợ ma như ngày còn nhỏ, mỗi lần đi tiểu thường đòi mạ dắt theo. Trong bóng đêm nhập nhòa, giữa các cồn mồ mả đầu óc và đôi mắt cô phải căng ra nghe ngóng phát hiện địch. Đôi bàn tay như có mắt biết rờ đúng sợi dây tơ mỏng manh địch chăng ngang con đường vào làng dẫn đến quả mìn gài theo kiểu chập mạch điện giấu trong bụi gai. Cô lần tìm chiếc kim băng chốt hờ hững, chỉ cần sơ suất tí chút chiếc kim băng tuột ra, trái mìn clâymo nổ xé tan xác. Cuộc sống của người chiến sĩ biệt động hoạt động trong vùng địch chiếm đóng không cho phép Thùy sơ suất dù chỉ một lần. Đối đầu với cái chết không thể có sự lơ đãng trót dại. Trong đội hình đi về đồng bằng, một anh chàng đi đầu dẫn đường tỏ ra không nhớ đường (!) - Thùy biết tỏng tòng tong anh ta ngại đi đầu vấp mìn - cô sẵn sàng nắm vai anh bạn nọ kéo áo và vượt lên trước. Trước mặt là làng quê của cô, thành phố của cô! Những dải tre xanh mờ mịt nhòa sương bao quanh các thôn làng chen nhau đứng chân. Một vầng sáng ở chân trời phía đông nam hừng đỏ, nhấp nháy. Đấy là Huế. Từ chuyến đi đồng bằng đầu tiên, chú Thọ đã chỉ cho Thùy cái dấu hiệu ấy. Cô khắc sâu trong trí nhớ và cứ theo đó mà gióng hướng gióng đường. Không bao giờ lạc.
Đêm vùng ven, mối nguy hiểm luôn rình rập. Có những chuyến đi công tác chỉ đơn thuần chuyển thư rồi vào ấp lấy gạo, thực phẩm. Bắt đầu đi từ cửa rừng từ bốn giờ chiều, hai ba giờ sáng đoàn người đã lên tới cửa rừng. Có chuyến cô nằm lại hàng tháng trời trong những căn hầm bí mật. Nhiều lần gặp phục kích, vấp mìn, Thùy vẫn cứ ham đi. Đồng bằng như có một ma lực cuốn hút. Cô thấy như mình được gần mạ hơn... Còn một địa điểm nữa Thùy cũng hay về nằm lại là quán mụ Chờ. Địa điểm nằm ém bí mật chỉ cách Huế tám cây số. Trong gian gác xép sát mái nhà mụ Chờ, cô có thể nhìn rõ được biển số của chiếc xe cuối ngày chạy ngoài Quảng Trị vô Huế dừng lại trước quán để cho mấy người xuống xe ngang đường. Cô nghe tiếng người nói chuyện lao xao. Hết nằm rồi lại ngồi bó gối thu lu, cô làm một phép tính cho trôi nhanh quãng thời gian còn lại. Tám cây số, chậm nhất chiếc xe chạy mất mươi phút đã về đổ khách ở bến xe Nguyễn Hoàng. Một phần sáu vòng quay chiếc kim đồng hồ Citizen có dạ quang trên cổ tay cô. Thêm dăm phút nữa, cô đã có thể ung dung đẩy cánh cổng sắt sơn xanh bước vào ngôi nhà lợp tôn có cây đào trước cửa. Ôm choàng lấy mạ, cô hôn vào đôi bả vai nồng mùi mồ hôi của mạ. Cô sẽ ngồi cạnh mạ, cời lửa kể cho mạ nghe những tháng ngày sống trên rừng. Mai sớm, mạ đi chợ, mua một nắm lá hương nhu, nắm quả bồ kết. Mạ sẽ bắt cô vục đầu xuống chậu nước ấm, tự tay vò đầu tóc rối bù dính kết mồ hôi của con gái, vừa chải, vừa mắng yêu... Tám cây số, mười phút xe chạy lại là khoảng cách giữa hai bờ vực - giữa nhiệm vụ đang được tổ chức giao phó và sự tháo lui vô kỷ luật, giữa dũng cảm và sự hèn nhát, giữa vinh và nhục.
Nghe sáu tiếng gõ đều đặn trên nóc hầm, Thùy gấp cuốn sổ, tắt đèn pin gõ trả ba tiếng. Lát sau cánh cửa hầm được mở ra, một luồng ánh sáng lùa vào. Dì Ba Xuân lách người chui vào hầm.
- Có chuyện chi đó dì?
- Thằng Châu chết rồi con ơi!
- Trời! Rứa bộ phận anh Để C3 ra sao?
- Tao không biết. Chỉ nghe mấy thằng bảo an kháo nhau ở chợ, đêm qua tụi nó phục kích đường chiến lược... mìn nổ và tiếng súng bắn lúc nửa đêm đó con! Sáng ra tụi nó đi kiểm tra phát hiện ra có Việt cộng chết. Ai dè, có thằng lính bảo an người Văn Xá nhận ra thằng Châu. Nó báo cho cấp chỉ huy. Vậy là mấy ông gọi xã trưởng Văn Xá sang nhận về.
- Họ chở Châu đi rồi hả dì?
- Chở rồi. Bắt chiếc xe lam nhà ông Hai Nóc chớ mô.
- Dì có nghe còn ai bị nữa không?
- Nào ai biết. - Dì Ba Xuân chép miệng - Tao nghe xong bủn rủn cả chân tay, thu vội hàng quán về đây báo cho mi hay.
- Con lo quá dì Ba.
- Tao cũng nóng ruột, nóng gan đây. Giờ mi tính răng?
- Có lẽ đêm ni con phải đi... Không có thì bộ phận anh Để gay hung, chừ thế ni nghe dì. Dì sang ngay Văn Xá, tìm hiểu cho rõ xem có đúng là thằng Châu bị hy sinh không?
- Liệu có cần gặp bà mạ thằng Châu không?
- Thôi khỏi cần dì à. Trước sau bà Chạ cũng sẽ hay. Mà dì vô xóm Mới bây chừ tụi nó nghi ngay. Dì đi Văn Xá cũng đừng đi khơi khơi nghe.
- Được, được... Vụ đó mi đừng lo cho tao.