Một Nửa Đại Đội
Đỗ Kim Cuông
www.dtv-ebook.com

Chương 12

Ngày mười hai...

Chiều hôm qua em còn ở cận kề bên anh. Bây giờ em đã nằm dưới tầng đất sâu hơn một mét. Xung quanh em là khoảng tối của căn hầm. Em cảm thấy ngột ngạt khó thở quá. Có lúc chỉ muốn đội hầm chui lên nhà để đón nhận thứ ánh sáng ban ngày dễ chịu và hớp ngọn gió đồng lùa vào. Không được! Chú Hai Ty sẽ cằn nhằn em. Và chính em cũng không cho phép mình liều lĩnh như vậy.

Tự nhiên em ao ước mình được trở thành một cô bé con mười tuổi. Em chạy ào ra con đường làng hòa nhập vào dòng người đang chạy về chợ Thanh Lương. Em sẽ la cà vào từng quán chợ mua nào đường, nào sữa, nào gạo, mì chính và vô số thứ khác chất đầy vào đôi quang thúng gánh về nhà. Và cả anh cũng nhỏ lại. Em sẽ đưa anh ra con đường cái quan coi xe chạy vô Huế, ra Đông Hà, Quảng Trị. Anh sẽ mặc sức ngắm mặt đường, giữa ban ngày ban mặt. Em vẫn còn nhớ đêm đưa các anh về xóm Mới Bầu Tháp. Cả đội hình đã cắt băng qua đường em vẫn không thấy bóng anh. Em lo sợ anh bị lạc. Em biểu Châu dẫn bộ đội đi trước. Còn em quay lại tìm anh. Lên tới giáp mé đường mới thấy anh đang lò dò đi xuống. Em hỏi: "Anh đi chi lâu rứa? Em cứ sợ anh lạc đường". "Lạc răng được! - Anh bảo - anh ở lại hôn con đường. Lâu quá anh mới gặp lại nó".

Em thiệt tức cười khi anh nhái giọng Huế của em. Bữa ấy em không thể hiểu nổi tại sao anh lại có thể hôn con đường lộ số I. Chắc là anh chọc em. Trên đời này chẳng có ai ngớ ngẩn đi hôn con đường. Nhưng tới khi nằm trong căn hầm tối như bưng em lại nhớ ra. Chả là có lần anh đã kể là nhà anh ở cạnh con đường I đó thôi. Làng anh quanh xóm cọ. Cây cọ là cây chi anh há? Em muốn hỏi nhưng lại ngại vì sợ anh chê mình dốt. Quê em không có cọ. Mà cũng có thể là em không rành. Cường cũng bảo với em: miền trung du Phú Thọ mới thực là quê hương của cọ. Những tàu lá cọ xòe ra như một chiếc ô xanh, trời mưa nắng chỉ cần một tàu cọ che trên đầu là chẳng còn sợ chi nữa. Điều đó có đúng không anh?

Bây giờ nằm trong căn hầm, em đợi ngày mau tối. Nhưng thời gian như được kéo dài ra bằng sợi cao su mềm. Em tính từng khắc trôi trên mặt chiếc đồng hồ dạ quang. Vừa phải chống lại cái nóng bức ngột ngạt của cơn nắng trưa hè chụp xuống mái nhà tôn. Em càng thấu hiểu vì sao anh lại đi hôn con đường. Ôi, giá mà em được vọt lên lúc này, em sẽ ngã ra mà hôn ánh sáng của bầu trời, hít đầy lồng ngực không khí. Từng lúc một ai đó trên hầm lại kéo sợi dây, báo trên nhà có động. Nhìn chiếc ống bơ được buộc vào một đầu sợi dây lâu lâu rung lên. Răng em tức cách chi.

Lại uống nước. Lại nhấm nháp khúc bánh mì cho đỡ buồn tẻ. Cứ cảm giác như mình đang nhai giấy lộn. Ngày đi học em có cái tật nhai giấy. Tụi bạn trêu em mãi, nhưng nó thành một thói quen khó sửa. Lại có động chiếc ống bơ đang rung rung trên đầu em".

Ngày mười ba...

"Gần sáng em mới về. Tắm rửa qua loa, nằm chợp mắt trên giường được một lúc, bà Hai Ty đã lay vội em dậy và đưa xuống hầm. Rất lạ. Mệt. Sao em không ngủ được nữa. Đôi mắt cứ trơ ra, ráo hoảnh, ngó trân trân lên trần hầm đã được căng phủ bằng một lớp vải để cho đất khỏi rơi xuống. Cây đèn pin tắt rồi lại mở. Tắt, lại mở. Một quầng sáng vàng khẽ chụp xuống tròn vừa bằng vành nón. Em rút cuốn sổ. Bây giờ thì em hiểu rồi. Chỉ có nói chuyện với anh em mới có cảm giác thời gian trôi qua nhanh. Và hình như nói chuyện với anh em mới có điều để nói.

Anh đừng tưởng em không ghét anh đâu nghe. Nhiều khi ghét ạ. Lắm lúc em tự hỏi, anh đánh giặc giỏi vậy, gan vậy, thế mà mấy đứa con gái bên huyện đội chọc tức anh với em (cái lần ngồi chờ trời tối ở dốc Tranh ấy anh nhớ không?) em thì đối đáp với con Huê, con Thu còn anh ngồi đấy chẳng dám nói năng chi mà mặt thì đỏ rân lên. Anh không biết với mấy đứa huyện đội, không già mồm với chúng nó thì chỉ có dại mặt. Tụi chúng càng được thể càng trêu tợn. Ngay cả khi mỗi lần em sang bên nhà ban chỉ huy C3 cũng vậy. Anh Để cứ chọc em hoài. Còn anh lại chui xuống hầm tránh mặt. Có lúc em tự hỏi: phải chăng em là đứa con gái xấu xí, kém cỏi và không xứng để nhận lấy tình yêu ở anh? Hay anh không yêu em?

Răng em tức vậy. Nhưng rồi mỗi khi nhận được những dòng chữ của anh viết trên tờ giấy kẻ 100 trang do Cường cầm sang, em lại run lên, phải vào hầm giả đò ngủ, bấm đèn pin đọc coi thử anh viết chi. Em tin rằng anh cũng yêu em, có phải vậy không? Em nhớ có một lần anh đã hỏi em:

- Thùy có người yêu chưa?

Ôi câu hỏi của anh mới sống sượng cách chi, nếu như em còn đang là cô nữ sinh ngày nào... Nhưng "cô nữ sinh" trong em đã bị đánh mất. Mấy năm lên rừng được ăn ở, sinh hoạt gần gũi với các anh bộ đội giải phóng, em lại tin rằng anh hỏi câu đó là thật lòng. Em đã im lặng mỉm cười, nhìn anh không trả lời. Mãi sau em mới hỏi lại:

- Vậy anh Hồng ở ngoài Bắc đã có vợ chưa?

- Vợ thì chưa có nhưng cũng có một người yêu.

Em nghe và cảm thấy tim mình đập mạnh:

- Chị ấy là ai rứa? Tên chi? - Em hỏi một câu, sau khi nói rồi mới biết mình dại dột. Anh nói:

- Cái làng quê khốn khổ của anh - Anh nói một cách chân thành - Làng anh nghèo lắm... hình như rất ít khi được mùa. Năm nào không hạn hán thì lại chịu lụt lội. Ở đấy, những người phụ nữ mùa cày phải đi theo trâu từ sớm. Nhưng anh yêu nó. Yêu một cách da diết như một người yêu không biết phụ bạc. Anh vẫn nhớ như in con đường sống trâu lầy lội cắt từ đường cái quan vắt qua làng. Mùa mưa lõng bõng bùn nước. Lũ trẻ nhỏ đi học chỉ mặc độc nhất chiếc quần đùi, mấy cuốn vở giấu vào bụng trùm kín người trong chiếc áo tơi để đến trường. Đứa trẻ nào có được một tấm nilon, dù nó vá chằng vá đụp hàng chục mảnh, có sợi dây rút thắt quanh cổ vậy đã được coi là sang nhất, oai nhất. Tấm áo mưa rách vá còn nhẹ hơn nhiều so với chiếc áo tơi làm bằng lá cọ. Con đường làng phải cắt băng qua nhà ga. Đấy là ba gian nhà lợp lá cọ. Trước cửa ga có vài hàng quán lèo tèo của mấy người đàn bà bán nước chè xanh, thuốc lá cuốn để trên những cái mẹt, cái chõng tre. Người trưởng ga thấp nhỏ, đã ngoài năm mươi. Người làng và lũ học trò vẫn gọi ông trưởng ga bằng cái tên tôn kính: ông xếp Thao. Những buổi chiều mùa đông tan học lúc quá năm giờ, đám học trò thường dừng lại trên sân ga thêm một chút nữa để đón chuyến tàu xuôi Vinh. Sương mù tràn xuống sớm phủ nhòa trên tán lá cọ, quẩn trên bếp các nhà. Trời đổ mưa phùn. Ông xếp Thao lưng còng còng khoác tấm áo bạt, đội mũ, tay cầm cờ hiệu đón tàu về. Những hành khách xuôi Vinh nhốn nháo trên sân ga. Hình như ai cũng hồi hộp, mong đợi cái giây phút chiếc đầu tàu hỏa chạy bằng hơi nước xuất hiện ở chỗ đầu ga, gióng giả kéo một hồi còi dài vào ga. Chiếc đầu máy thở phì phò phụt ra màn hơi nước trắng đục như sữa. Ấy là lúc vui nhất trong một ngày. Ở ga xép, cuộc sống sôi động, ồn ào náo nhiệt được mươi phút. Con tàu chạy đi rồi lại trả cho nhà ga cái không khí trầm lắng, buồn tẻ cố hữu của nó. Ông xếp ga Thao thu trong tay chiếc thẻ đường, còn đứng mãi bên kè đá nhìn hút bóng con tàu. Bọn trẻ con cũng nhìn theo hút bóng con tàu. Nó đã biến mất đi từ lúc nào, nhả khói lại phía sau đường ray sắt song song chìm dần trong sương chiều.

- Hà Nội là đâu?

- Vinh là đâu?

Những đứa trẻ hỏi nhau. Chúng không hề biết và không tài nào tưởng tượng ra nổi hai cái địa danh từ lâu đã ám ảnh trong ký ức và nuôi ước mơ một lần tới đó. Ông xếp Thao nhìn đám trẻ con, khẽ mỉm cười. Đôi mắt ông hiền phảng phất buồn. Như chợt nhớ ra rằng đã tới lúc phải về nhà, bọn trẻ tản nhanh theo các ngả đường để lại trên sân ga ông xếp Thao đứng đó một mình và một vài người khách về xa, lỡ độ đường. Đêm nay sẽ nghỉ lại trong gian nhà lá.

"Anh yêu miền quê bé nhỏ của anh, cũng như anh yêu..." Anh chỉ nói đến đó rồi im bặt. Em cũng không muốn hỏi thêm bởi chỉ cần nhìn vào đôi mắt anh, gương mặt ửng đỏ, em biết điều anh muốn nói..."

Ngày mười bảy...

"Em bị sốt hai ngày. Những cơn sốt thường kỳ cứ hai tháng một lần. Tựa như người khách quen đến tìm em đúng hẹn. Đúng như mỗi lần ta đi đồng bằng. Cứ ba giờ chiều, một tổ bám địch từ đỉnh đồi Tranh xuống dốc Đất Đỏ, qua dốc Đu bình yên, tới khe Ồ Ồ. Tổ cảnh giới sẽ ngồi ở Miếu Trâu chốt lại để chờ đoàn người xuống đồng bằng sẽ đi theo con đường ấy vào lúc 4 giờ 30 phút.

Cơn sốt hành em vật vã. Nằm trong hầm càng cảm thấy oi ngạt. Những lúc dứt cơn chỉ muốn chợp mắt nhưng cũng không sao ngủ nổi. Cứ vật vã, vật vã hoài. Muốn ngồi dậy lấy cuốn sổ và cây bút ghi lại những điều nghĩ về anh, vừa tựa lưng vào vách đất đã thấy đầu óc quay cuồng choáng váng. Mắt nổ đom đóm. Em lại phải nằm vội ngay xuống vùi đầu vào đống chăn gối.

Răng em hay nghĩ tới anh vậy? Ngay cả trong những cơn mơ em cũng nghĩ đến anh. Em mơ em đưa anh về Huế gặp mạ. Em và anh đạp xe đi chơi phố. Buổi chiều ở Huế đẹp vô chừng. Em sẽ chỉ cho anh căn phòng học của em năm cuối cấp mà em đã vĩnh viễn xa nó. Hình như có một lần anh hỏi:

- Ở Huế có mùa thu không Thùy?

- Răng không có! - Em cãi - Mùa thu của Huế tuyệt vời. Nhưng khi anh hỏi, mùa thu ở đây ra sao thì em lại chịu không cách chi trả lời nổi. Anh nói:

- Mùa thu quê anh lạ lắm. Trời đang oi bức. Nóng đến kinh người, lâu lâu mới có một trận mưa rào cho hả hơi đất. Tự nhiên sau một đêm ngủ dậy thấy trời mát mẻ, hơi se lạnh. Ấy là lúc những ngọn gió heo may về. Mùa thu đã tới!

Anh bảo anh đã có những ngày sống ở Huế. Vậy mà khi em hỏi chùa Từ Ân ở đâu, chùa Diệu Đế ở đâu... anh ngơ ngác. Làm sao có thể tin được. Mãi sao em mới hiểu những ngày anh vô Huế, anh mãi lo đánh nhau chớ có làm chi có thời gian dông dài như em cùng lũ bạn đi vãn cảnh chùa, hay đưa nhau đi pic-nic ngày chủ nhật ở Thiên An, nằm dưới những cánh rừng thông đọc sách.

Có lẽ chỉ riêng anh, em mới nói ra điều này. Trong em, giữa "con bé Thùy" nữ sinh trường Đồng Khánh - Huế luôn luôn tìm cách đối chọi với một con Thùy "biệt động thành". Cuộc sống chiến đấu đã dạy cho em nhiều điều. Em đã khác, khác đến nỗi mạ em có gặp lại em, sống với em ít ngày bà khó có thể nhận ra dấu vết của đứa con gái mình ngày trước. Nhưng nói như vậy không có nghĩa rằng em chấp nhận cuộc sống của những người như anh một cách dễ dàng. Những cái gì một khi đã là thói quen thường khó phá bỏ. Em đã phá bỏ và ráng tập tạo nên những thói quen mới để phù hợp với cuộc sống hiện tại. Từ đó tìm ra một niềm vui mới. Cũng như tình yêu của anh ập đến với em. Có lúc em thử chống đỡ lại nó. Nhưng em bất lực, quy phục. Đấy cũng là lúc em tìm ra thứ hạnh phúc thiêng liêng nhất, đẹp đẽ nhất bấy lâu nay em đã tự kiếm tìm, hoặc không thấy hoặc vớ phải thứ đồ giả.

Anh có tin nổi không? Bốn tháng trước đây cả ông Thọ, và ông Trình cho gọi em tới. Chú Thọ bảo em:

- Thùy ạ, thường vụ huyện ủy cho mời cháu tới để làm việc.

- Việc chi có quan trọng không ạ?

- Tất nhiên là quan trọng nên cả chú và chú Trình mới cùng làm việc với cháu... Thế này nghe, huyện ủy đã họp và quyết định bổ sung cháu vào huyện ủy.

- Chu cha... Cháu làm răng nổi?

Ông Trình nhìn ông Thọ cười khà khà:

- Con ni nói năng hay thiệt.

- Thưa hai chú, cháu nói rất trung thực.

- Cũng chính vì cháu trung thực và bằng việc làm của cháu, các chú quyết định như vậy. Cháu thử nghĩ coi. Cuộc chiến đấu của chúng ta còn dài, trong khi đội ngũ cán bộ chủ chốt ở huyện, xã tiêu hao. Chị Chồn, chị Nguyệt mất rồi. Đến chị Đắng cũng mất, cô Ron cũng mất. Việc bổ sung cháu vào huyện ủy chẳng có gì lạ cả.

- Các chú tin cháu, cháu thiệt mừng. Chỉ e cháu còn non kém nhiều mặt không được như mấy chị.

- Cái đó thì cháu khỏi lo. Chú và chú Thọ đây chẳng có trường lớp nào dạy cho mình một cách đầy đủ cả. Thực tế của chiến trường và chính kẻ thù cũng là kẻ dạy cho mình biết làm cách mạng.

Cuối cùng chú Thọ kết luận:

- Từ nay trách nhiệm của cháu sẽ nặng nề hơn rất nhiều. Cháu không chỉ biết lo cho đơn vị đường dây, đội biệt động của cháu, nhiệm vụ đặc biệt của thành ủy Huế giao cho cháu, mà cháu còn phải lo cho toàn huyện.

Trời ơi, nào em đã làm được nhiều nhặn chi! Em vẫn tự coi mình chỉ là cô học trò trong trường học mới mẻ này. Từng phút, từng giây em phải tự vượt mình. Những bóng ma của ngày cũ vẫn chưa thôi ám ảnh, giày vò. Khi ấy, em lại tìm đến với anh.

Cơn sốt đã dứt rồi nhưng em vẫn còn váng vất khó chịu. Dòng kẻ và những con chữ nhập nhòa trước mắt chỉ chực nhảy múa..."

Ngày hai mươi...

"Lội bộ cả đêm về mệt muốn chết. Hy vọng và hy vọng suốt quãng đường dài. Đến được trạm liên lạc, ngồi chờ ròng rã gần ba tiếng chẳng thấy ai. Đường tắc? Hay trên núi gặp chuyện không hay?

Tự nhiên em muốn có anh ở đây để mà cấu xé, giận hờn..."