Hồng đã lầm!
Còn cách làng Liễu Thượng chừng bốn mươi mét trước khi vượt qua con hói rộng, nước sâu ngang cổ, phải bơi. Hồng và Để đã tổ chức lại đội hình chiến đấu. Tân được phân công vào tổ thứ hai, đi ở thứ tư trong đội hình. Bơi sang tới bờ bên kia hói, gã nằm ép sát trong bờ cỏ, chếch bến lội một chút và quan sát. Gã đếm từng người đi trên bờ. Trời tối quá, người nọ bám sát lưng người kia không còn ai để ý tới gã nằm lọt lại. Sự căng thẳng đang hút lấy mọi người ở phía trước. Làng đấy, bụi tre ken dày chẳng nhìn thấy gì hết. Chỉ có ngôi trường tiểu học là nằm thoi loi ra ngoài làng. Đấy cũng chính là mũi đột kích của toàn đội để vào làng.
Để là người đi sau cùng của đội hình. Thằng Tân đợi Để đi được vài chục mét mới bước lên bờ. Thằng Tân liền nảy ngay sang ý định khác. Đi cả đêm gã không thể nào tới thấu Huế. Chưa kể hắn phải cắt băng qua hàng chục làng mà làng nào cũng đều có tụi bảo an, lính nghĩa quân chốt giữ. Đêm hôm lớ xớ ăn mìn phục kích của tụi Mỹ lết. Chả dại! Một khi về tới đây. Chi bằng ra chi khu quận Hương Trà. Trước sau cũng phải trình diện, nộp súng. Chậm trễ một chút nhưng tánh mạng lại an toàn, gã tính vậy.
Vừa vượt qua eo đất xóm Bầu, thằng Tân đã nghe thấy tiếng mìn nổ rung đất ở đầu làng Liễu Thượng. Gã nằm ẹp xuống bờ ruộng hướng súng về ngôi trường học. Ngược hướng đạn không tới được chỗ gã nằm nhưng súng nổ gần quá, lại kê sát chỗ tụi lính ngụy đặt khẩu cối 61 tiếng nổ đầu nòng làm cho gã khiếp vía. Tưởng như tụi lính ngụy nhìn thấy cả gã và giọt đạn lên lưng. Hắn úp mặt xuống đất và lấy hai tay bịt tai. Mồm lẩm bẩm khấn trời Phật cho tai qua nạn khỏi. Lúc pháo sáng cháy rực bầu trời thằng Tân càng sợ. Phía làng Liễu Thượng, gã nhìn rõ tụi ngụy chạy ra từng tốp tiếp viện cho bọn ở trường học. Thấy cả những cáng thương binh, tử sĩ chuyển về phía sở chỉ huy. Lúc ba chiếc trực thăng chiến đấu bay từ ngả Phú Bài lên, nỗi khiếp đảm của gã đã lên tới cực điểm. Máy bay bay thấp, cứ lượn vòng quanh làng, thấp đến nỗi cánh quạt quạt gió làm tốc tóc gã. Gió chạy suốt dọc sống lưng. Tiếng rốc-két phóng ra ngay phía trên đầu đanh óc. Rồi hàng tràng dài đạn 40 ly, đỏ lừ từ bụng những chiếc máy bay cắm xuống cánh đồng.
- Lạy trời, lạy Phật thương con... - thằng Tân bộc ra câu phù chú quen thuộc.
Gã không dám ngước mặt nhìn lên trời, vùi đầu sâu vào vồng khoai chờ đợi sự phán xét của số mệnh. Chỉ có tiếng máy bay, tiếng pháo chuyển hướng bắn, hướng bay lên ngả trên núi, thằng Tân mới dám ngồi dậy. Trong làng Liễu Thượng, tiếng súng con đã tắt từ lâu. Nơi vừa xảy ra trận đụng độ cũng im ắng. Gã nghe thấy tiếng ô tô rú máy vọng lại xa xa. Chắc là xe chở xác và chở tụi thương binh về Huế. Gã đứng lên loạng choạng vơ vội khẩu súng và cứ thế cắm đầu chạy ra con đường liên xã cắt từ quốc lộ I đi vào Phú Ổ.
Nhưng chỉ chạy được một đoạn thằng Tân lại sợ. Mỗi thước đường đối với gã bây giờ - dù con đường ấy đang dẫn dần gã tới một niềm khát vọng, mong chờ từ lâu nay rồi - đều ma quái chết chóc. Cái gì đã xảy ra sau ngôi mộ trăng trắng kia? Liệu trên đường sắt có tụi lính nằm phục không? Trong đầu óc gã tự vẽ ra những ánh mìn clâymo chớp lóa sáng rồi tiếp sau đấy là những tràng súng tiểu liên cực nhanh, cối cá nhân bắn đuổi. Bước chân gã dò dẫm trên con đường. Gã sợ cả chính bước chân của mình. Thằng Tân không quen đi đất, nhưng quy định cho những người hoạt động vùng giáp ranh khi về đồng bằng phải đi đất. Gã xỏ liều đôi dép râu. Đôi dép đâm ra hại gã. Nó không có mắt để tránh những hòn sỏi trên đường, mặc dù gã bước chậm chẳng kém gì anh lính đi khom khi tiềm nhập vào làng bám địch. Gã tự nguyền rủa sự vô ý tứ của mình đến mỗi đoạn đường nghi hoặc, gã nằm ẹp xuống cỏ, dỏng tai nghe ngóng chán chê, lết từng chặng chiếm lĩnh vị trí rồi mới đi tiếp.
Tới quán mụ Chờ, thằng Tân nằm ém lại dễ có tới hai tiếng hơn. Trời về khuya sáng dần. Ngôi quán nhỏ im lìm bên con lộ lạnh ngắt. Chỉ vài phút, gã đã chui qua được hàng rào dây thép gai cao hai mét, rào phía tây con đường và lọt vào giấu mình sau lưng ngôi nhà mụ Chờ. Một đôi chuyến Thùy đã đưa gã về qua đây: lúc thì lấy hàng, lúc chuyển thư. Mụ còn bẹo tai gã mà bảo:
- Chu cha, thằng Tí con mụ Hường lớn quá hà. Có mạnh không con?
Nghĩa là mụ Chờ rất biết mạ gã và cả cái tên thuở nhỏ của gã. Chồng mụ, một ông già hom hem có bộ râu trắng chẳng nói năng chi. Ông ta ngồi bó gối trong màn nhìn vợ đang thì thào vào tai Thùy chuyện chi đó. Không hỏi Thùy, thằng Tân đoán đây cũng là một cơ sở của ông Thọ. Gã muốn vào gõ cửa nhà mụ Chờ, nói trí trá với mụ, ngủ lại một đêm rồi sáng mai kiếm đường ra quận trình diện. Gà mới gáy hai lượt, còn lâu mới sáng. Trong khi gã buồn ngủ díp mắt, muỗi thì nhiều như trấu cứ thi nhau chích vào bắp đùi, vào mặt, vào cổ gã. Hy vọng có thể kiếm được tô cơm nguội. Hai ngày nay, gã nín nhịn mặc cho cái đói hành hạ để lọt về tới đây. Nhưng bây giờ đứng trước cửa quán mụ Chờ, thằng Tân lại đâm rụt rè, suy tính lại.
Trong nhà vừa bật lên tiếng ho khan của lão già. Hai vợ chồng mụ Chờ hẳn phải thức dậy bởi tiếng súng bắn nhau ở Liễu Thượng khi hồi. Thằng Tân giật thót người, gã sơ ý để cho mũi khẩu AK thúc vào chiếc thùng tô nô đựng nước, gã vội lùi nhanh ra sau nhà, chui vào vạt môn vót tốt cao ngang ngực. Trong nhà có tiếng dép loẹt quẹt. Cánh cửa kẹt mở. Mụ Chờ lách người đi ra sân đứng khuất vào bóng tối của cây vú sữa. Thằng Tân nhìn thấy trong tay mụ Chờ một con dao xắt chuối cán dài tới nửa mét. Mụ đứng im nghe ngóng động tĩnh, đi vòng quanh bếp rồi ra phía sân trước, hướng mặt ra đường lộ. Mụ Chờ đứng ở ngoài khá lâu. Thằng Tân tưởng mụ đã vào nhà theo đường cửa trước. Mấy lần gã nhấp nhỏm muốn ngồi dậy xem động dạng ra sao. Bất chợt, gã thấy mụ lù rù xuất hiện ngay sát bên cạnh. Mụ tụt quần ngồi đái xè xè. Gã nhắm mắt bịt mũi nín thở tưởng ngạt muốn chết được. Mụ Chờ đứng dậy, hai tay vẫn cầm con dao xắt chuối bước vào nhà chốt cửa.
Thằng Tân hoảng hồn trút ra một hơi thở dài nhẹ nhõm trườn nhanh qua khỏi chỗ núp. Hắn không còn bụng dạ nào dám gõ cửa nhà mụ Chờ. Mụ sẽ giết gã không chừng, chỉ cần mụ đoán hiểu được ý định của gã. Mụ có gan làm vậy. Trông mụ đứng cầm con dao, mặt đanh lại không còn là một bà già đã ngồi xới cơm cho gã. Thằng Tân lộn trở lại con đường lộ và nhằm hướng thành phố đi tới.
Răng mà trời sáng vậy? Thằng Tân cảm thấy thời gian trôi lâu quá. Gã tìm được chiếc cống chui ngầm qua đường lộ. Cái cống dùng để xả nước ruộng từ cánh đồng Hương Thái sang cánh đồng Triệu Sơn. Vòm cống hình cung cao một mét. Không có nước. Thằng Tân nằm co ro ngoài cửa cống. Khẩu AK chĩa nòng ra ngoài. Gã lấy chiếc bao đạn gối đầu. Chỉ vài phút sau gã mơ tưởng tới đêm mai đã nằm ở Huế trong ngôi nhà ấm áp của mạ. Nhưng giấc mơ của gã bị phá tan ngay, suýt nữa thì gã kêu lên vì sợ. Từ trong bóng tối, ba bốn con chuột to cỡ bắp tay nghênh ngang bò sát vào người gã. Có con lấy răng cắn vào ngón chân gã tưởng là vớ được miếng ăn béo bở.
Thằng Tân chui ra ngoài, đứng một lát, gã không tài nào chịu nổi cái lạnh, gió ngoài đồng thổi dữ. Gã chui tụt vào trong vòm ống, ngồi thu lu ôm súng. Những con chuột bò qua bò lại, lớp lông mịn màng của nó cọ cọ vào bắp chân. Gã thò tay định vồ lấy con chuột đập cho chết. Con chuột tinh khôn chạy mất. Gã thiếp ngủ trong một giấc mơ nặng nề. Gã bị một đoàn chuột bao vây, chỉ chực nhảy bổ vào cắn xé. Lúc đầu gã còn giơ khẩu súng AK lên chống đỡ, gạt lũ chuột ra, một lúc sau mệt quá khẩu súng bị rơi mất. Gã bị đàn chuột đè cho ngạt thở. Gã vùng ngược dậy, ngơ ngác trên da thịt mình cũng có một lớp lông xám như lông chuột. Ô hay, gã cũng có đuôi? Thằng Tân hét một tiếng, mở choàng mắt! Cả chân trời phía tây hừng trong ánh đèn dù và một quầng lửa đỏ.
***
Thằng Tân bị nhốt vào một gian nhà kho tối om. Tụi lính ở chi khu không chịu cởi trói cho gã. Sợi dây dù thít chặt hai cổ tay nhức nhối khó chịu. Cú đạp của thằng lính đến bây giờ gã còn thấy đau tức ở ngực. Thằng Tân gặp số xui. Đang ngủ say, gã sực tỉnh bởi tiếng động dữ dội. Gã lui cui chui ra khỏi vòm cống và nhìn theo chiếc xe tuần đường chạy qua. Chiếc xe từ Huế ra. Trời còn sớm. Chạy phía sau chiếc xe tuần đường chừng trăm mét là một đoàn công-voa dài chở lính. Giá như gã đừng hét lên và huơ cao khẩu súng thì tụi lính đã không thấy. Việc làm dại dột của thằng Tân đã bị một tên lính ngồi trong xe tuần đường phát hiện. Chiếc xe rú còi dừng lại. Cả đoàn xe nhà binh dừng lại. Thằng Tân lạnh người khi nghe tiếng quy lát lên đạn rắc rắc.
- Đừng bắn! - Thằng Tân la to - Tôi ra chiêu hồi.
Năm sáu thằng lính mặc bộ đồ rằn ri nhảy ra khỏi thùng xe bọc thép.
- Bỏ súng xuống, lên đây!
Thằng Tân nhận ra tên lính nói giọng Quảng Nam. Gã bỏ khẩu AK đã tháo băng đạn xuống vệ cỏ, run rẩy bước lên con đường nhựa. Tên ngụy giọng Quảng tiến tới trước mặt thằng Tân, bằng một miếng võ hiểm đá gã ngã sấp.
- Đồ ngu. Bỏ cái thắt lưng ra. Mi còn những hai quả US nữa kia mà.
Thằng Tân vừa nằm vừa cởi thắt lưng. Cú đá hiểm làm cho gã choáng váng.
- Tôi về với các ông! - Thằng Tân ấp úng.
- Cho phép mày đứng dậy - Thằng lính ngụy hất đầu ra hiệu - Mày phải nói là về hàng chúng tao mới đúng.
- Dạ, tôi về hàng ạ - Thằng Tân lặp lại như một cái máy trong tiếng cười rộ lên của tụi ngụy.
Từ dưới đoàn xe công-voa một gã sĩ quan ngụy đi lên. Thằng lính người Quảng chạy tới. Không biết chúng nói gì với nhau, thằng Tân chỉ nghe được mỗi câu sau cùng:
- Các anh giải nó về giao cho quận xử lý, lẹ lên.
Chưa tới bảy giờ. Viên quận trưởng ở Huế chưa ra. Thằng Tân phấp phỏng chờ đợi. Gã bần thần tựa lưng vào vách tường.
Tám giờ sáng. Thằng Tân vẫn chưa được gọi lên. Một tên trung sĩ vào cởi trói giao cho thằng Tân cây bút bi, tờ giấy. Gã phải khai báo một cách đầy đủ theo những câu hỏi đã được in sẵn trong tờ giấy.
Căn phòng nửa sáng nửa tối. Thằng Tân kéo chiếc bàn con ra gần cửa, chỗ có ánh sáng lùa vào và bắt đầu viết. Gã viết liền một hơi kín đặc một trang giấy. Lâu lắm, cái vốn văn hóa lớp chín của gã mới được sử dụng trở lại, trong một trường hợp thật oái oăm. Những gì gã biết đều được kể lại không thiếu một chữ. Gã hy vọng bằng lòng thành thực của một kẻ trở đầu, sẽ sớm được trả tự do. Gã tin một cách ngây thơ vào lời cam kết của nhà chức trách cũng được in sẵn ngay trong đầu tờ giấy tự khai và trả lời của viên trung sĩ lúc nãy vào hướng dẫn cho gã những chi tiết cần thiết.
Mười giờ, tờ giấy được chuyển ra theo đường khe cửa. Ở ngoài ấy có người chực sẵn đem đi. Mười phút sau, cánh cửa gian nhà kho lại mở. Lần này là một người lính. Anh ta đem vào cho thằng Tân một ổ bánh mì kẹp thịt và một bi đông nước lọc.
- Ăn xong mày ngủ đi. Có cái giường ở góc nhà kia kìa - Người lính nói.
- Thưa ông. Xin ông nói giùm tôi muốn được thưa chuyện với ông quận trưởng.
Người lính cười khẩy:
- Đại úy quận trưởng còn đang bận tiếp một bà ở trong Huế ra chơi. Chắc chưa tới lượt mày đâu con ạ. Cứ yên tâm, nằm đợi khi nào có lệnh.
Hai cánh cửa lại được khóa kín mít.
Thằng Tân với ngay lấy ổ bánh mì kẹp thịt ngoạm ngấu nghiến. Một ổ bánh mì thực là quá bé bỏng so với cái bụng đã hai ngày nay nhịn đói, và luôn thèm khát. Khe cửa nhỏ chỉ bằng cái cung chiếu. Gã ghé mắt nhòm ra ngoài cho đỡ tẻ. Đúng hướng cổng đồn lính tráng đi lại rậm rịch. Cây gỗ chắn trước cổng sơn khúc trắng, khúc đỏ. Một tên lính gác đứng im lìm trong chiếc chòi bằng gỗ sơn xanh. Cách vài mét trước cổng đồn là con đường đá. Con đường nối từ cây số 9 chạy về tiểu khu Hương Cần. Lâu lâu thằng Tân lại thấy một chiếc xe lam, trên nóc xe chất đầy quang gánh, thúng mủng và những bao hàng của khách.
Cuộc sống bình dị ấy, chỉ cách gã chưa đầy một trăm mét. Vừa soi mắt qua khe cửa ngắm cuộc sống bên ngoài xao động gã vừa thích thú thưởng thức điếu thuốc lá Ru-bi "quân tiếp vụ" tên trung sĩ cho lúc nãy, để dành bây giờ mới dám hút. Hít từng hơi thuốc lá thơm quyến rũ vào sâu trong lồng ngực, thằng Tân suýt phì cười vì phát hiện ra trong gian nhà kho cũng có chuột. Không phải là giống chuột đồng như hồi đêm mà là những con chuột nhắt. Chúng đứng cụm lại một chỗ, gã cởi chiếc dép râu quăng theo. Chẳng trúng được con nào, chỉ tổ mất công sờ soạng trong bóng tối lần rờ tìm chiếc dép. Tay gã quơ vào mạng nhện và đống vỏ đạn, thùng đạn để trong góc nhà tối om.
Ngoài trời trở nắng to. Gian nhà lợp tôn nóng hầm hập. Thằng Tân không dám cởi áo ngoài. Hắn chỉ chờ đợi cái giây phút ổ khóa kêu lạch cạch và tiếng người ta kêu gã lên gặp quận trưởng. Có tiếng còi xe vọng dài bên ngoài cổng. Cây gỗ chắn được nhấc cao, chiếc xe tải lao vào trong sân cuốn theo một lớp bụi mịt mù.