Một Nửa Đại Đội
Đỗ Kim Cuông
www.dtv-ebook.com

Chương 1

Tiếng máy bay trinh sát OV10 ầm ì không dứt. Một thứ âm thanh thật khó chịu, trầm, đều. Có lúc đanh tai nhức óc khi chiếc máy bay đảo vòng nghiêng cánh bay qua đỉnh đầu. Mỗi vòng "cua" trinh sát của chiếc máy bay rộng hẹp khác nhau, tiếng động cơ vọng lại lúc gần, lúc xa.

Gã phi công săm soi từng hẻm núi, từng khe suối, từng cánh rừng cây tràm, cây giang mọc cao quá đầu người hy vọng tìm ra dấu vết Việt cộng. Có lúc chiếc máy bay sà thấp. Cỏ tranh đổ rạp, những vạt cây tràm, cây thanh hao rẽ thành vệt theo đường bay ngả nghiêng run rẩy. Chỉ một tia khói mỏng, một tấm áo, chiếc khăn vô ý phơi ngoài bãi trắng cũng đủ để cho tên xạ thủ giữ súng vãi xuống loạt đạn 40 ly; loạt đạn điểm, hoặc những quả pháo màu. Chỉ vài phút thôi, những tốp máy bay trực thăng chiến đấu dài thuỗn như con cá mắm sẽ tới ngay. Hướng theo loạt đạn chỉ tọa độ của "thằng" máy bay trinh sát, chúng sẽ phóng rốc-két, đạn 40 ly, phá tan cái không gian tĩnh lặng của vùng rừng giáp ranh buổi sáng mai. Nhanh hơn nữa là các cụm pháo 105 ly ở Tứ Hạ, Đồng Lâm, Văn Thánh cũng phóng đạn "cả lỗ đáo" vào tọa độ ấy.

Tít trên cao "thằng" OV10 vẫn tiếp tục đảo vòng quan sát. Chỉ đến khi nào gã phi công yên trí các nhóm Việt cộng, các đơn vị lính trẻ của Bắc Việt bị nghiền nát mới điện về bộ chỉ huy tiền phương lệnh cho các căn cứ pháo binh và không quân ngưng tập kích. Chiếc máy bay trinh sát tiếp tục các vòng bay trên các cánh rừng khác đã được chia lô, chia khoảnh trên bản đồ. Chẳng biết tụi phi công phân ca kíp như thế nào, dường như không bao giờ vắng bóng chúng ban ngày trên các vùng giáp ranh Phong - Quảng - Hương Trà.

Hàng tháng nay lũ trực thăng C47, H34 cũng hoạt động ráo riết. Từ các căn cứ ở Huế, địch chở quân lên chi viện cho miền Tây Phong Điền. Bên ấy, "Công trường" 6 của sư đoàn Hương Giang đang vây ép địch ở Cô Ca Va, Núi Bông, Dốc Chè. Lính Mỹ đang tung ra những đơn vị thiện chiến nhất càn quét đánh ra đến tận đường tuyến dốc Mèo, tung quân lên cả A So, A Lưới để tụi ngụy ở vùng ranh triển khai những tuyến chốt. Chỉ cần vạch mấy cọng lá nón kế ngay căn nhà hầm ẩn mình dưới một bụi giang cũng có thể trông rõ con đường xe lên Hòn Vượn, đất đầy đỏ lòm, và cả tiếng xe ủi gầm rú trên đỉnh đồi Chóp Nón.

- Vậy là thằng địch quyết lập một vành đai trên tuyến giáp ranh để giữ Huế - Ông Duy lẩm bẩm.

Ông gượng ngồi lên chiếc võng nilon, níu tay vào chiếc xà gồ ngang căn hầm, đứng lên. Đầu óc choáng váng. Mọi vật quay cuồng, xiêu vẹo tưởng như nhảy múa trước mắt ông. Chút ánh sáng chiếu qua cửa hầm hắt xuống, sao mà vàng vậy. Vàng đến chói cả mắt. Cơn sốt đã hành ông hơn mười ngày nay. Mỗi ngày một trận, sáng, trưa, chiều, và cũng có khi sốt về đêm. Mỗi lần lên cơn sốt, cậu công vụ tiểu đoàn đắp cho ông cả ba mảnh dù hoa vẫn còn cảm thấy lạnh. Nhiệt kế cặp lên tới băm chín, bốn mươi độ. Hai ngày nay thêm chứng đi ngoài. Hôm đầu ông đi cả ngày hơn chục lượt, chưa kịp ngồi đã tuôn ra như tháo cống. Từ hôm qua đã bớt nhờ mấy viên tô mộc và nắm búp sim sao khô nấu lấy nước uống của Phưởng, y tá đại đội 3, hái ở vạt sim chân đồi. Chung qui cũng tại món cháo môn. Gọi là cháo kỳ thực toàn dọc môn ngứa cắt ở ngoài khe Điên nấu muối. Ngưa ngứa ở cổ một chút nhưng may còn có cái mà ăn cho khỏi nhớ bữa.

Mười sáu người của đại đội 3, cộng thêm hai thủ trưởng tiểu đoàn, một công vụ, hai trinh sát. Cả thảy hai mươi mốt người lính cùng với khoảng chừng ấy anh chị cán bộ huyện, xã, các đơn vị biệt động có nhiệm vụ bám giữ vùng giáp ranh Hương Trà. Hai mươi mốt người lính một tuần nay không còn lấy một lon gạo. Bộ đội chịu đói đã đành, đến ngay cánh huyện, xã cũng đói. Những anh đội trưởng đội đặc nhiệm an ninh như Có, Đoàn phụ trách đường dây của thành ủy Huế có nhiều đầu mối cơ sở ở đồng bằng quanh các xã Hương Thạnh, Hương Thái, Hương Mai, Hương Vân, Hương Cần... đất quê của những người lính biệt động trinh sát huyện, cũng đành bó tay. Các cửa rừng về đồng bằng, các điểm cao và cả các làng ven đường lộ số 1 đều có lính ngụy của trung đoàn 54 chốt giữ. Con đường lên miền Tây, vượt qua sông Bồ, đường tuyến cũng tắc. Mỹ đang càn đường tuyến, chốt giữ dốc Mèo. Một dải rừng núi từ dốc Đoác lên khe Trái qua địa đạo 310 dày đặc lính Mỹ của sư đoàn kỵ binh bay. Đường 12, Mỹ càng chốt giữ. Con đường về với "công trường 5”, qua ngả đường 12 vượt sông Hai Nhánh cũng tắc.

Bốn ngày trước, Duyệt - tiểu đoàn phó, dẫn tổ trinh sát đạp đường lên miền Tây, theo sông Bồ tìm cách bắt liên lạc với tiểu đoàn để xin gạo. Họ đã bị Mỹ phục kích ngay dưới chân dốc Đoác. Hai người lính trinh sát đã hy sinh sau quả mìn Claymo nổ. Duyệt phóng đại một trái B.40 vào ổ đại liên đặt sau tảng đá rồi rút vội. Duyệt bị thương ở cánh tay. Gùi, võng, tăng, và cả lá thư của ông Duy báo cáo tình hình địch ở giáp ranh và tình hình đói, thiếu vũ khí đạn dược của bộ đội gửi cho tiểu đoàn trưởng Bậu nằm trong chiếc gùi Duyệt rơi, lọt vào tay tụi Mỹ.

Ông Thọ, bí thư huyện ủy sang bàn với ông Duy tổ chức phối hợp những nhóm nhỏ phối thuộc giữa bộ đội C3 và huyện đội đột kích về đồng bằng đánh địch và mua gạo mắm cứu đói. Hai tổ đi cảnh giới đều vấp phục kích ở dốc Cát và dốc Đu. Thêm hai đêm nữa bộ đội đột rừng không sao ra khỏi khe Ồ Ồ. Ngoài con đường chiến lược ở cửa rừng, nhà bạt lính giăng đầy. Số gạo dự trữ trong các gùi, giấu ở kho bí mật trong rừng được quản lý Chí giao lại, tính với anh nuôi từng góc lon một kết cục rồi cũng hết. Cuối cùng là những bữa ăn chỉ có cháo dọc môn lõng bõng nước. Bữa nào những tổ đi cảnh giới, bám địch lúc trở về mò ven suối bắt được ít ốc đá, hoặc những con cua xấu số to bằng đầu ngón tay cái thì nồi cháo môn càng thêm ý vị. Muối cũng phải tiết kiệm. Đó là món hàng chiến lược. Không có gạo thì hái môn thục, môn vót, dọc mùng, đọt măng để mà nấu. Canh rau rừng mà không có muối thì không sao nuốt nổi.

Vô hình chung ông Duy trở thành người giữ bốn lon muối cuối cùng của đại đội 3. Chẳng phải Chí không đáng tin cậy để làm việc ấy mà phải giao nhiệm vụ giữ muối cho chính trị viên tiểu đoàn. Ông Duy sốt rét nằm nhà. Còn tất cả lính đại đội 3 đều phải phân thành nhóm nhỏ bám địch và chốt chặn các ngả đường vào hậu cứ. Ngoài ông Duy và Duyệt, anh bị thương và bị gai cào trong chuyến đạp đường, còn có hai người nữa ở nhà canh chừng địch và trông nom thủ trưởng. Đó là Thiệu, công vụ tiểu đoàn và Phưởng, y tá đại đội 3. Họ cũng là những tay súng giữ nhà kiêm việc nấu ăn cho đại đội bộ. Nấu ăn ở vùng giáp ranh gần địch cũng là cả một nghệ thuật. Tuyệt đối không được để khói trong khi bếp lửa vẫn cháy rần rật. Nấu cơm, nấu cháo đều bằng những chiếc soong không nắp. Cơm cháo vẫn phải sôi đều, chín tới. Ai vô ý để cơm, cháo bị khê ắt sẽ bị người khác la rầy. Không rõ từ bao giờ những chàng lính bộ binh đại đội 3 có tật kiêng cơm khê. Còn có cậu nào vô ý ho không bịt miệng, xuống suối lấy nước để soong, ca va vào thành đá, lúc ấy ông Duy nhăn mặt và chỉ muốn cốc vào đầu cậu ta một cái. Ông sợ tụi thám báo và những toán lính gác trên đồi Chóp Nón phát hiện ra hậu cứ.

Chiếc máy bay trinh sát vẫn nghiêng ngó sà thấp trên vùng rừng giáp ranh. Thứ âm thanh vô hình như hóa thân thành những mũi kim chích nhoi nhói vào đầu ông Duy. Ông nằm vật xuống chiếc sạp ken bằng cây đùng đình. Phảng phất mùi mốc, ngai ngái của lớp đất. Chợt giữa những khoảng không cao rộng của bầu trời, át cả tiếng động cơ máy bay, vang lên tiếng loa ọ ẹ, rồi tiếng thằng lính tâm lý chiến rõ mồn một, giọng Huế:

"Các bạn cán binh Bắc Việt thuộc C3-K10 chú ý! Các bạn đang bị đói. Các bạn đang bị quân đội "đồng minh" và các đơn vị của Quân lực Việt Nam Cộng hòa vây chặt. Các bạn hãy tìm đường về với chính nghĩa quốc gia. Các bạn có thể tìm đến bất cứ một nơi nào có quân đội của Quân lực Việt Nam Cộng hòa hay quân "đồng minh" để chiêu hồi. Các bạn sẽ được đón tiếp tử tế".

Giọng gã uốn éo lúc vọng xuống rất rõ, lúc buông xa theo "cua" lượn chiếc máy bay.

"Lá thư của ông lọt vào tay địch - Ông Duy đau đớn nghĩ - chúng biết rành rẽ đến như vậy". Ba hôm nay chiếc máy bay phát băng ghi âm kêu gọi bộ đội đại đội 3 chiêu hồi ra rả nói suốt ngày. Ông Duy biết Duyệt ân hận và đau đớn. Lần đầu, buổi sáng nghe tiếng loa chiêu hồi, ông Duy và Hồng - chính trị viên đại đội 3 - đoán định ra ngay tình thế. Hội ý đảng ủy chỉ có ba người: ông Duy, Duyệt và Hồng. Duyệt ôm chân nhăn mặt nhận khuyết điểm và chịu kỷ luật Đảng.

- Bây giờ chưa phải lúc xét kỷ luật - ông Duy bảo Duyệt - Điều quan trọng là tìm mọi biện pháp để đảm bảo sự sống và sức chiến đấu cho chừng này con người.

Phải chăng đây cũng là cách ông an ủi Duyệt sau một trận đánh phản phục kích bị thất thiệt nặng nề.

"- Hai đứa đi với tôi hy sinh nằm lại ở dốc Đoác rồi anh Duy ơi!".

Hai hôm trước, sau trận bị địch phục kích, thoát chết trở về, Duyệt đã nói với ông Duy như vậy. Áo quần anh ta gai rừng xé rách toạc, băng quấn trắng một mảng đùi, trán rỉ máu, mặt nhem bùn đất. Sáu giờ ba mươi phút tối, trận đánh ở dốc Đoác đã được chương trình đài phát thanh Huế đưa tin: "Tại tọa độ K, vùng Tây Bắc Huế trong cuộc đụng độ với một đại đội Cộng quân, quân lực đồng minh Hoa Kỳ đã tiêu diệt tại chỗ hàng chục tên (!) bắt sống được cả tiểu đoàn phó Lê Văn Duyệt, thu 12 AK, một súng cộng đồng phun lửa Nga - Xô B.40 cùng nhiều quân trang, tài liệu...".

Ông Duy chết điếng! Nghĩa là cả cuốn sổ công tác của Duyệt cũng lọt vào tay địch. Từ bữa đó, Duyệt nằm liệt trong hầm. Vết thương xước nhẹ làn da, nhưng cũng đủ làm tấy sốt đang dấy lên trong lòng anh tiểu đoàn phó trẻ tuổi, vốn đầy tự tin phảng phấp cả chút kiêu ngầm của người cầm quân giỏi, bây giờ hổ thẹn trước những người lính đại đội 3. Một trận không đáng thua với anh ta.

Ông Duy lại gượng ngồi dậy. Ông níu được chiếc cọc mắc võng đứng lên, lần từng bước ra cửa hầm. Bụng sôi òng ọc, đau quặn. Ở góc bếp, Thiệu và Phưởng đang ngồi cời đống than đỏ hồng.

- Tụi bay mần chi rứa. Coi chừng khói nghe!

Thiệu chạy lại đỡ thủ trưởng:

- Anh lại đau bụng ư?

- Ờ... ờ.

- Anh bám vào vai, em dìu.

Ngang qua bếp, ông Duy nhận ra những đọt mây non, bóc trắng nõn đặt trên lớp than. Phưởng ngồi đơm lại chiếc cúc áo, vừa lấy tấm lưng che khuất đám đọt mây. Mấy đứa đói. Hơi cổ ông cứ nghẹn. Ông không quên hỏi Phưởng:

- Thằng Thắng, thằng Tùng bớt sốt không em?

- Dạ, em mới sang tiêm cho hai cậu ấy về. Lát nữa em xuống tiêm cho thủ trưởng mũi trợ lực...

- Thôi, khỏi cần.

Lúc ông Duy ở ngoài hố xí trở vào, đám đọt mây đã biến mất. Ông ghế ngồi xuống chiếc sạp.

- Thiệu! Lát nữa em ra báo với anh Hồng, bốn giờ chiều mời các đồng chí đảng viên về họp.

- Vâng.

- Nếu anh Duyệt cắt sốt, chân đỡ đau, em dìu anh Duyệt sang họp luôn thể. - Ông Duy nói thêm.

Văng vẳng có tiếng tụi lính ngụy gọi nhau í ới trên đỉnh đồi Chóp Nón vọng xuống. Tiếng dao chặt cây chí chát. Và cả tiếng máy bay trực thăng vỗ phành phạch hạ xuống sân bay trên đỉnh đồi.

- Từ sáng tới giờ tụi em đếm được mười bốn chiếc trực thăng hạ xuống Chóp Nón rồi đấy thủ trưởng ạ - Phưởng nói - Nó toàn đổ xuống các loại ống to và tròn.

- Nó đổ ống bi để xây dựng hầm ngầm. Hai đứa bây theo dõi cho chặt nghe. Thỉnh thoảng thay nhau lên đồi nghe ngóng.

- Dạ...

Ông Duy người thấp đậm. Qua mấy ngày bệnh, người ông hốc hác. Hai má tóp. Da xanh tái, môi thâm. Chỉ còn có hai con mắt là còn giữ được vẻ lanh lợi. Nằm vật xuống chiếc võng nilon, ông thở mạnh, mắt nổ đom đóm. Cho tới sáng nay, bệnh đi ngoài của ông bớt nhiều nhưng do mất nước nên người yếu. Và cũng hai ngày nay ông chỉ sống nhờ vào lon gạo rang và món lương khô dự trữ chiến đấu. Gạo rang lâu, đanh cứng của ông Sáu Thọ gửi biếu. Ông Duy hiểu rằng đấy cũng là những hạt gạo cuối cùng của đồng chí bí thư huyện ủy.

Ông Duy khẽ rùng mình, ớn lạnh ở sống lưng. "Nó đã tới". Ông ngồi dậy gắng gượng vớ chiếc bi đông nước uống nốt hai viên Nivaquyn, rồi vội vã đắp chăn. Cái lạnh như từ trong gan ruột kéo ra. Hai hàm răng đánh vào nhau nghe lập cập. Tai ong ong như có hàng trăm con ve sầu đồng thanh cất nhịp dạo khúc nhạc mùa hè, trong khi hơi thở phả ra lại nóng hầm hập. Cổ họng khô ráo. Đầu nặng trịch muốn cất lên mà không nổi.

... Ông Duy như thấy mình trôi nổi bồng bềnh trên con thuyền nan giữa dòng sông Hồng. Mướt xanh hai bên bờ là những bãi đay, bãi điền, thanh hao chạy dài theo triền phù sa ven sông. Hai cây trụ điện vững chãi, cao ngất kéo dây ngang sông trên bến phà Tân Đệ. Ông muốn níu thuyền lại để áp sát vào chiếc phà đang tiến vào bờ. Con thuyền bất kham chẳng chiều theo ý ông. Nó cứ vùn vụt trôi xuôi, bỏ lại sau lưng chiếc phà. Ông thèm thuồng, ứa nước dãi nhìn những núi táo, núi cam chín mọng đứng vững chãi trên đầu của những người đàn bà đất Thuận Vi đem sang bán ở chợ Rồng - Nam Định. Các bà, các cô đứng bình thản nhìn con thuyền của ông trôi qua, miệng bỏm bẻm nhai trầu thuốc.

... Rồi ông lại thấy mình cùng với những sĩ quan trường Lục quân giương cao lá quân kỳ, đi đều hàng tiến diễu qua quảng trường Ba Đình trong ngày Quốc khánh mồng Hai tháng Chín. Trên kỳ đài cao, Bác Hồ hồng hào tươi cười trong bộ đồ trắng đứng vẫy tay. Cạnh Bác là Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Chủ tịch quốc hội Trường Chinh, Bí thư Lê Duẩn, và Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp đứng trang nghiêm chào đáp lễ những cán bộ chiến sĩ quang vinh của mình! Cờ, cả một rừng cờ. Người! Cả một biển người với khúc nhạc hùng tráng... "- Ai kia?” Đúng là vợ ông rồi. Dáng người Mận cao cao, mảnh, hai tay vung vẩy theo nhịp gánh. "- Mẹ cái Thái ơi! Dừng lại tôi bảo cái này” - Ông réo gọi. Tiếng ông chìm giữa đồng.

Mận như không nghe tiếng chồng gọi, cứ cun cút quảy gánh ra chạy nhanh trên con đường đất về hướng làng. Hai đụn rạ cao có lúc che khuất cả người, chỉ còn thấy chỏm nón và hai ống quần gió thổi bay phần phật. Đôi chân ông tự nhiên tê cứng, rủn ra, bước cao, bước thấp ngã rúi rụi. Ông chạy cắt băng cánh đồng mong sao kịp vợ. Gốc rạ đâm vào hai bàn chân tuột dép đau nhoay nhoáy. Mặc kệ...

"- Mẹ cái Thái ơi! Chờ tôi với... Tôi là Duy đây. Tôi về thăm mấy mẹ con đây này".

Bóng Mận mỗi bước càng hút xa. Chân ông rã rời. Tức quá ông ngồi bệt xuống gò đất giữa đồng...

"- Ơ kìa! Thằng chó con, sao mầy cứ cù buồn thầy. Thầy đòi lại kẹo bây giờ".

"- Thầy ơi, thầy ở nhà chơi lâu lâu, mai kia con đi bắt cà cuống nướng cho thầy ăn nhá".

" - Ờ... Đừng cù thầy buồn nữa con. Bu đi chợ về rồi kìa".

Đứa con trai út sáu tuổi của ông chưa chịu buông tha. Nó cứ luồn một ngón tay vào nách ông ngoay ngoáy. Ông Duy trằn mình...

- Thủ trưởng đang lên cơn sốt cao. Để em đo nhiệt độ - Tiếng Phưởng.

Chỉ thấy lờ mờ trước mặt ông gương mặt Phưởng, đượm vẻ lo lắng.

- Tình hình địch có gì không em?

- Không ạ. Máy bay trực thăng vẫn đổ vòng bi và các khối vuông xuống Chóp Nón.

Phưởng nghiêng chiếc nhiệt kế ra ngoài cửa hầm miệng lẩm bẩm:

- Bốn mươi độ.

Bắp tay ông nhói đau, tê buốt. Ông Duy cảm thấy như cái chất nước nhờn vàng của ống Nivaquyn chảy chậm chạp trong thớ thịt.

Cuộc họp đảng viên chỉ có năm người. Duyệt mệt, cáo nghỉ. Bốn đảng viên của đại đội 3 là Hồng, Tống trung đội trưởng, Cường tiểu đội trưởng và anh Chí quản lý. Lẽ ra còn thêm anh Để đại đội trưởng và hai trung đội trưởng trung đội 1 và 2 là Toàn và Xu. Toàn đi viện và Xu đang cùng Để đi xuống địa bàn điều nghiên, tắc đường chưa lên được. Già nửa đại đội 3, theo lệnh của tiểu đoàn lên miền Tây củng cố trong đội hình của tiểu đoàn. Số ấy do Minh, đại đội phó, và Hường, chính trị viên phó đại đội chỉ huy. Người thứ năm có mặt trong cuộc họp là ông Duy. Ông vừa là chính trị viên tiểu đoàn, vừa kiêm bí thư đảng ủy. Cơn sốt dứt lúc hai giờ chiều, nhưng người ông vẫn còn yếu lắm. Quanh cổ ông quấn chiếc khăn dù. Trong số Đảng viên ngồi đây, ông Duy là người có tuổi đời và tuổi đảng cao nhất. Trước khi trở thành sĩ quan trường Lục quân, ông đã từng làm bí thư huyện đoàn. Năm 1963, ông được lệnh nhập ngũ đi học ở Sơn Tây, rồi đi làm cán bộ chính trị của trường. Mãi tới năm 1966, ông mới dẫn tân binh vào Nam và ở lại chiến đấu.

So với ông Duy, bốn người còn lại ít tuổi hơn ông nhiều. Kể cả Hồng. Tuy vậy, Hồng về tiểu đoàn sớm nhất - lúc mới có lệnh của quân khu thành lập trung đoàn 5, khi ấy còn gọi mật danh "công trường 5”.

Tới năm 1965 - 1966, tiểu đoàn về giải phóng Phú Vang, Phong Quảng, đơn vị được bổ sung quân, ông Duy đưa về cho tiểu đoàn một đại đội tân binh mới được huấn luyện ở Thanh Hóa. Giữa năm 1967, để tăng cường lực lượng mở cuộc tập kích chiến lược Xuân 1968 hai đại đội tân binh người Hải Phòng, Thái Bình về tăng cường, Tống, Chí nằm trong đợt quân ấy. Tháng 3 năm 1969, tiểu đoàn nhận tân binh của sư đoàn 330. Hai đại đội thiếu, toàn người Hải Hưng và Thái Bình. Lúc ấy có Cường. Chỉ hai trận đánh tập kích thu súng bắt tù binh trên đồi Chổi, mấy chuyến về diệt tụi bảo an ở La Chữ, Phúc Ổ, hạ một trực thăng, Cường đã được chi bộ đại đội 3 xét kết nạp Đảng, tặng thưởng huân chương chiến công. Năm người là bốn thế hệ của một tiểu đoàn trong vòng dăm năm.

Hồng ngồi bó gối trên sạp bắt gặp ánh mắt của ông Duy đang nhìn mình. Anh cũng như những người đang ngồi đây đều thấu hiểu tình hình khó khăn mà đơn vị phải chịu đựng. Mỗi người ở từng cương vị khác nhau đều có trách nhiệm gánh chịu, chia sẻ.

Hơn hai chục con người - non nửa đại đội đang phải đương đầu với cuộc phản kích nống quân ra của địch. Chúng hy vọng quét trắng vùng giáp ranh, đẩy các đơn vị chủ lực sang bên kia sông Bồ, tạo ra một lớp đệm vững chắc yên ổn cho một dải đồng bằng vây quanh Huế từ mùa mưa 1970. Bộ đội chủ lực của tỉnh, của quân khu còn bám được ở vùng giáp ranh thì địch còn phải chịu những cuộc đụng độ cấp tiểu đoàn, đại đội. Những trái ĐKB - "hỏa tiễn", như tụi lính ngụy thường gọi - vẫn có thể uy hiếp Mang Cá, Tứ Hạ và các trận địa pháo.

Trước khi rút từng bộ phận lính Mỹ ra khỏi miền Nam, thực hiện âm mưu "thay màu da trên xác chết" của Tổng thống Mỹ Ních-xơn, ít ra người Mỹ cũng phải làm cho đám tướng tá ngụy yên tâm. Chúng bàn giao cho lính ngụy những vùng đất "phi Việt cộng" (!). Các ấp "Tân sinh" ra đời thay cho các "ấp chiến lược" của anh em họ Ngô ngày trước, kèm theo từng toán Mỹ, lính ngụy nống ra càn quét lập vành đai phòng thủ. Dọc theo tuyến quốc lộ dẫn vào cố đô Huế địch cho rào bằng dây kẽm gai, cao hai mét, kéo dài hàng chục cây số.

Bộ chỉ huy vùng I chiến thuật quan tâm đặc biệt tới việc phòng thủ Huế. Sau hai đợt tấn công vào Huế và các huyện phụ cận mùa Xuân 1968, thằng địch té ngửa ra bởi sức mạnh Việt cộng. Chúng hiểu có một Huế - Mậu Thân với sức tấn công nổi dậy của quân dân Huế như triều dâng thác đổ. Ai ngờ một vùng "thánh địa" suốt mười bốn năm sống ưu tư lặng lẽ, giấu sau con sông êm ả kia lại có biết bao đợt sóng ngầm dữ dội. Ngọn gió mùa Xuân 1968 đã thổi bừng lên dữ dội và làm cho chúng xiểng liểng.

Thua như vậy và hiểu như vậy, kẻ địch quyết làm dữ vùng giáp ranh Hương Thủy, Hương Trà - cánh cửa giữ Huế hai đầu từ trên xanh giội xuống. Đội hình của tiểu đoàn 10 bị xé lẻ, chia cắt. Chia cắt luôn cả với trung đoàn đang phải đánh chống càn và giữ giáp ranh phía Nam Huế.

Và phải đương đầu với cái đói.

Đây là trận đói thứ hai của đại đội 3, kể từ sau chiến dịch Mậu Thân. Trận đói thứ nhất, diễn ra sau Mậu Thân. Cả đại đội thiếu gạo nhưng còn lấy được đồ hộp Mỹ ở căn cứ Đồng Thanh. Ba tháng ròng, bộ đội ăn đồ hộp Mỹ, uống cà phê Mỹ, nhai kẹo cao su, hút Pa-man, Sa-lem... Trận đói này mới thực sự là trắng tay.

Cả tiểu đoàn hơn một trăm quân được lệnh rút lên Hang Đá, Khe Lu củng cố đi gùi gạo, đạn cho quân khu. Bám trụ lại giáp ranh có non nửa đại đội mà vẫn bị đói. Chả lẽ tìm đường kéo lên miền Tây cả? Không được! Lên miền Tây có khác nào đại đội 3 giao đất cho giặc, phó mặc mọi chuyện cho huyện, xã.

- Chẳng lẽ, chúng ta, những người lính giải phóng của một trung đoàn đã từng gắn bó máu thịt với Huế, bây giờ gặp bước khó khăn, "cha con" rủ nhau rút đi để mặc cho địch! Thưa các đồng chí! - Ông Duy nhìn vào từng người! - Chúng ta còn mặt mũi nào mà nhìn các đồng chí bên huyện, bên xã.

Hồng nhận ra ông Duy đang xúc động. Đôi vai ông rung lên.

- Có phải vậy không Tống? - Ông Duy gặng hỏi trung đội trưởng trung đội 3. Tống vừa nêu ra ý kiến đưa cả đơn vị tìm đường vượt sông Bồ lên miền Tây kiếm gạo. Bộ đội sẽ có điều kiện nghỉ ngơi sau những ngày đói khát, ốm yếu.

- Nếu cùng lắm - Ông Duy nói tiếp, giọng ông đanh lại - những anh em ốm yếu quá ta sẽ tổ chức bám đường đưa về tuyến sau. Sông Bồ tắc thì cắt rừng vượt đường 12 về với trung đoàn. Còn chúng ta, tôi và các đồng chí động viên số anh em còn khỏe ở lại bám đất.

Ông Duy bật lên cơn ho. Ông giơ tay ôm lấy ngực. Ông nhìn mọi người và dừng lại ở Hồng.

- Các đồng chí ạ. Dẫu có thành vượn, thành duộc chúng ta cũng quyết giữ vùng giáp ranh. Tìm mọi cách bảo toàn lực lượng và đánh địch. Cho kẻ thù hiểu rằng cuộc chiến đấu của chúng ta vẫn tiếp diễn. Chúng ta vẫn có mặt ở mọi nơi: trên xanh, vùng giáp ranh và ngay cả những thôn ấp đồng bằng mà kẻ thù tưởng đã quét sạch cách mạng tới từng đường tơ kẽ tóc...

- Anh Duy ạ. Tôi có một đề nghị - Hồng nói lúc ông Duy đã dứt lời và đang nhìn mọi người chờ đợi - Tôi xin được đưa một tổ cắt đường về đồng bằng để đón bộ phận anh Để. Đã quá hẹn hai ngày. Nhân thể vào dân mua gạo, muối.

- Liệu có lọt nổi không? - Chí bây giờ mới cất tiếng.

- Chưa thể nói chắc. Nhưng phải đi mở đường thông về đồng bằng. Chỉ có về với dân, mới hy vọng gỡ nổi cái đói lúc này. Tôi lo cho anh Để lắm. Chưa biết chừng lên gặp địch rồi cũng nên. Số anh em ở đây đề nghị giao cho Tống và anh Chí chỉ huy. Vả lại cũng còn có anh và anh Duyệt nữa...

Tiếng Hồng bị ngắt bởi những tiếng nổ của đạn cối 81 ly, địch bắn hú họa xuống quanh chân đồi Chóp Nón.

***

Thân hình Phưởng che cửa hầm làm cho căn hầm tối lại.

- Anh Duy ơi, anh dậy ăn chén cháo.

Ông Duy ngạc nhiên:

- Ủa? Gạo đâu tụi bay nấu cháo?

- Tổ anh Hùng bám địch trên đồi Chổi lượm được ít gạo ở bãi ngụy.

- Được nhiều ít mà nấu cháo cho anh ăn thế này?

- Anh Hồng bảo em nấu riêng cho thủ trưởng và mấy người ốm. Thủ trưởng ăn đi cho lại sức.

- Thiện đâu Phưởng?

- Nó đem cháo qua hầm cho anh Duyệt ạ.

Ông Duy đỡ bát cháo. Còn nóng. Mùi gạo thơm thơm quyến rũ. Lại có cả ớt bột rắc lên mặt. Đợi Phưởng lên khỏi, ông Duy bước lên theo. Bóng tối nhập nhòa căn lều lợp bằng lá nón nhưng cũng đủ để ông nhìn rõ sáu cái đầu đang ngồi quây quần quanh chiếc soong tỏa khói. Ông Duy bấm cây đèn pin. Luồng ánh sáng chỉ bằng đầu đũa thoát ra từ loa đèn được bọc kín bằng lớp vải xanh. Nồi cháo môn vót xanh rớt. Cả sáu người đều ngước lên nhìn ông. Không để cho ai kịp phản ứng, ông cúi xuống đổ luôn bát cháo gạo vào soong. Ánh đèn pin tắt ngấm.

- Anh Duy, sao anh lại làm vậy? Anh đang bệnh kia mà!

Ông Duy ngồi thụp xuống không trả lời Hồng. Tự tay ông múc một bát cháo môn ra ngồi ở góc sạp.

Bất chợt một tiếng nổ trầm đục phá tan sự yên lặng.

- Cái chi đó tụi bây? - Hồng ngơ ngác - Đứa nào ở trung đội thằng Tống làm cướp cò súng à?

Bóng Thiệu chạy vào nói hấp tấp:

- Anh Hồng ơi! - Nhận ra có cả chính trị viên tiểu đoàn ngồi đó, nó nói luôn - Anh Duy ơi! Anh Duyệt tự sát rồi.

Hồng choàng vội dây thắt lưng bao súng cùng với ông Duy bước nhanh ra khỏi nhà. Phưởng vơ vội túi thuốc, băng lên trước lội ào xuống suối. Hồng còn quay lại kịp dặn:

- Tụi bay dọn đồ đi, pháo dập tới ngay bây giờ đó.

Trong căn hầm kèo chữ A, Duyệt nằm ngửa, hai chân đạp vào vách hầm, bàn tay phải vẫn còn cầm chặt khẩu K54. Máu tuôn ra từ thái dương đọng thành vũng trên chiếc võng bạt trải nằm, Duyệt một mắt he hé, một mắt mở nhìn lên trần hầm. Phưởng quì cả hai chân giữ tấm gạc để máu khỏi trào ra. Tay kia cậu ta luồn vào trong áo của Duyệt sờ vùng ngực. Người vẫn còn ấm nhưng tim đã ngừng đập. Hồng cúi xuống gỡ khẩu K54, khóa lại chốt an toàn. Mùi thuốc súng phảng phất trong gian hầm chật chội.

- Thủ trưởng Duyệt chết thật rồi anh Hồng ạ - Phưởng ngước mắt lên nhìn Hồng.

Giọng ông Duy vang lên đột ngột, gắt gỏng khác thường:

- Chúng ta không có những loại thủ trưởng như thế này. Đồ hèn!

Một tiếng nổ dữ dội vang trên đỉnh đồi tranh sau nhà. Pháo điểm. Mấy người ngồi nép vào sát vách căn hầm nghe rõ cả tiếng pháo đề-pa âm âm rất xa. Giây lát sau, tiếng đạn rít xé gió. Chớp lửa sáng lóa ngoài cửa hầm. Hồng ngồi ngoài cùng trông rõ cả những chiếc lá non xanh mỡ màng, run rẩy. Từng loạt pháo nổ đinh tai nhức óc. Lúc đầu còn nghe được tiếng đề-pa ở rất xa, sau tiếng nổ nối đuôi nhau như giã giò, chẳng còn nghe thấy gì nữa. Không gian sập tối.

Đất rừng chuyển rung dữ dội.