Một Nửa Đại Đội
Đỗ Kim Cuông
www.dtv-ebook.com

Chương 3

Nằm trong căn hầm kèo với vết thương, Duyệt không thể nào hình dung nổi diễn biến của trận phục kích trên dốc Đoác. Từ khe Môn vượt qua một triền đồi thoai thoải cho đến con suối để chuẩn bị leo dốc không có một dấu hiệu nào chứng tỏ có địch. Ở một bãi ngụy cũ, địch thường hay đóng chốt ở ngã ba Hương Trà thì chỉ có cơm rơi vãi, những bếp lửa lớp than còn mới nhưng ít ra toán lính ngụy ấy cũng bỏ đi đã hai ngày rồi. Giá như có một con đường đạp cắt ngang qua đường trục? Giá như có dấu giày "răng chó" để lại trên những hạt cát ẩm ướt ven suối hay trong con đường mòn xuyên rừng. Tuyệt nhiên không. Kể cả tiếng máy bay trinh sát lượn vòng trên những địa bàn thường có địch. Duyệt đặt tình huống nếu có gặp địch thì ở bên kia khe Trái hoặc lên tới địa đạo 310 chứ không phải ở đây. Từ dốc Đoác lên thấu đó còn những bốn tiếng đi bộ nữa.

Hai người lính trinh sát đi trước, Duyệt đi thứ ba cầm khẩu B.40. Chiếc gùi nhẹ tênh đeo sau lưng. Thông thường chẳng mấy ông cán bộ tiểu đoàn phải đeo hỏa lực, nhưng tổ công tác chỉ có ba thầy trò, vả lại Duyệt không chấp nê điều đó. Đi đường trường phải xuyên qua một vùng Mỹ đang càn ráo riết, càng có hỏa lực mạnh càng tốt. Tối hôm trước Duyệt đã hơ nóng lại ba quả đạn B.40, lau lại khẩu K.54 và nạp băng đạn mới.

Ba thầy trò, hai AK, một B.40, một súng ngắn và sáu trái lựu đạn US. Vậy là mạnh. Chuẩn bị leo dốc Đoác, Duyệt cho cả tổ nghỉ lại lấy sức chừng mươi phút rồi tiếp tục đi. Con đường lên dốc phải luồn qua cây rừng và những bụi giang, bụi mây chằng chịt. Phía bên kia hẻm núi, chuối rừng mọc xanh tốt trổ bắp đỏ chót. Dưới các lèn đá hiểm hóc môn vót, môn thục mọc thành từng vạt, bẹ lá cao quá đầu gối. Lá tai voi dày bản phủ xòa trên mặt đất. Rải rác trên những bãi tráng do pháo bắn hoặc bên rìa quanh hố bom Mỹ ném từ dạo sau Tết Mậu Thân, Duyệt còn thấy cả những cây rau tàu bay to mập, lá non tươi sau mưa. Tiếc của trời, anh bứt được một ôm đeo lủng lẳng phía sau chiếc gùi. Rau tàu bay trần qua nước sôi, bóp muối, cho thêm tí bột ngọt ăn cũng lạ miệng. Leo dốc chừng gần ba mươi phút, cả tổ đã lên tới gần đỉnh dốc. Tăng đi đầu vừa đi vừa quan sát. Sĩ đi thứ hai, bước nặng nề. Chỉ vài chục mét nữa thôi, tới đỉnh dốc. Lên cao mây giang ít đi. Chen giữa những cây rừng cao to là những bụi lá non rậm rạp. Bất chợt tiếng nổ xé màng tai, cát bụi bay mù mịt. Duyệt bị hất ngược trở lại đầu đập vào một tảng đá choáng váng. Khẩu đại liên đặt trên đỉnh đồi bắn như vãi thóc quét dọn con đường trục. Đạn va vào những tảng đá tóe lửa... Duyệt tỉnh lại. Việc đầu tiên là anh quờ tay cầm khẩu B.40 bị quăng vào chẹt đá. Chẳng cần ngắm, Duyệt hướng đầu quả đạn vào bụi lá nón trên đỉnh đồi, bóp cò. Một quầng lửa màu da cam chụp lấy ổ đại liên. Trên con đường trục vừa đi không còn bóng dáng của Tăng và Sĩ. Vạt cây bị phát quang bởi trái mìn Clâymo quét. Duyệt còn nhận ra cả tiếng gọi nhau í ới của bọn Mỹ vọng tới. Anh chạy trở lui xuống dốc. Đạn cối cá nhân bắn chặn phía trước mặt, sau lưng. Đạn R15, đạn trung liên của tụi Mỹ quét từng loạt dài. Duyệt ngã dúi dụi. Anh phải bỏ đường trục theo khe nước cắt băng xuống.

***

Ôm cái chân đau tấy sốt nằm trên võng, Duyệt hoảng loạn tâm thần. Nỗi khiếp đảm sau trận phục kích đè nặng trong lòng. Đánh hàng chục trận lớn nhỏ, chưa bao giờ Duyệt bị phủ đầu đau như lần này. Chiến sĩ hy sinh không lấy được xác, bản thân Duyệt bị mất khẩu K54, mất gùi. Giá như thất bại ấy là của ai kia, chứ đằng này lại là tiểu đoàn phó Duyệt, người có tiếng đánh giặc chỉ biết thắng, không biết thua. Niềm kiêu hãnh của một kẻ luôn chiến thắng khiến anh tự tin. Bộ đội trong tiểu đoàn mỗi lần đi đánh giặc biết có Duyệt chỉ huy là họ tin sẽ thắng. Và thắng thật. Nhưng trận thua này, Duyệt biết mình đang phải trả giá đắt cho uy tín của một thủ trưởng tiểu đoàn và lòng ngưỡng mộ của những chiến sĩ, về anh.

Thà rằng Duyệt chết mất xác do trái mìn của tụi Mỹ, thà rằng anh trúng đạn chết dưới tán cây rừng... Còn hơn... Mỗi bữa ăn, Thiệu bưng sang cho anh một ăng-gô cháo môn. Duyệt nuốt không vô. Để cho mấy chục người chiến sĩ đói, đó là lỗi tại anh, tiểu đoàn phó phụ trách hậu cần. Khách quan ư? Ừ thì địch chốt, tắc đường. Nhưng hơn một tấn gạo giấu trong kho của tiểu đoàn tháng trước bị ướt là do anh không chịu kiểm tra tay quản lý. Cả tiểu đoàn phải chia nhau số gạo ướt ăn vội vã. Nhiều chỗ gạo ướt quá vừa chua vừa đắng, làm bún nuốt cũng khó vô. Nhiều lúc Duyệt không dám nhìn vào mắt mấy cậu chiến sĩ vừa ốm dậy sau cơn sốt. Chân tay lẻo khẻo, mắt sâu hoắm như hai lỗ đáo, má tóp, môi thâm sì. Vừa ốm dậy, họ phải đi bám địch suốt ngày. Đến ngay ông Duy to mập là vậy giờ cũng chỉ còn có bộ khung, nằm bẹp húp cháo môn. Không ai trách cứ Duyệt, kể cả ông Duy. Vả lại mải lo đánh giặc chống càn, chống đói đảng ủy tiểu đoàn ba tháng nay phân tán mỗi người một nơi, chưa bao giờ đủ mặt để họp.

Mấy đêm nay, hầu như Duyệt thức trắng. Anh nằm nghĩ miên man chuyện nọ chuyện kia. Tiếng gà rừng eo óc gáy vọng dưới chân đồi tranh, anh mới chợp mắt thiếp đi được một lúc nhưng lại chìm đắm trong những cơn mê sảng. Ngày hai bận, Phưởng sang tiêm thuốc, thay băng. Căn hầm kèo chữ A vô hình chung trở thành lớp vỏ bọc che chắn cho Duyệt khỏi tiếp xúc với thế giới bên ngoài, tránh gặp mặt ông Duy, Hồng và những người chiến sĩ.

Trong căn hầm kèo chữ A, lúc nào chán nằm võng, Duyệt lại xuống sạp nằm. Khoảng không gian chưa đầy hai mét vuông, ánh sáng lọt qua tán lá cây rừng hắt xuống nhờ nhờ, một mình anh một thế giới. Nhưng chính Duyệt từng giờ, từng phút phải đối đầu với chính mình...

Trốn tránh được với những chiến sĩ đại đội 3, chẳng cần tiếp xúc với ông Duy nhưng Duyệt không thoát khỏi được tiếng vọng của âm thanh từ bên ngoài dội vào. Tiếng pháo bắn cầm canh đạn bay rít qua đỉnh đầu nổ đâu trên ngả địa đạo 310, khe Trái. Tiếng máy bay OV10 lượn vòng, tiếng trực thăng phành phạch... Và rồi cái vọng của thằng tâm lý chiến kêu gọi bộ đội C3 ra chiêu hồi.

Duyệt tưởng tượng ra cả bộ mặt, cả nụ cười sung sướng của những thằng chỉ huy ngụy, Mỹ nào đó cầm trên tay lá thư của ông Duy gửi cho tiểu đoàn trưởng Bậu viết bằng mực bút bi trên tờ giấy xé ra từ cuốn vở Cogiđô một trăm trang. Trong cơn tức giận, Duyệt đã đạp nát cả chiếc đài Natiônal ba pin đại, khi thằng phát thanh viên đài Huế đưa tin Duyệt bị quân đội đồng minh bắt sống và đã đầu hàng về với chính phủ quốc gia. Cái tin láo xược ấy làm cho Duyệt đau đớn hơn cả vết thương ở bả vai và những vết gai cào ở chân. Rồi ông Duy và Hồng sẽ cải chính cho Duyệt. Nhưng hiện thời Duyệt đang nằm trong hầm của đại đội 3 thì cả tiểu đoàn, cả trung đoàn và cả quân khu sẽ ngỡ ngàng vì liều thuốc độc hại đó... Miệng thế gian!... "- Trời ơi! Thằng Duyệt đổ đốn đến vậy kia à?". "Nó đánh đấm ra răng mà để lính chết còn nó thì bị bắt sống?". "Ha ha! Thằng Duyệt chiêu hồi tụi bây ơi! Chuyến ni lo mà chống càn. Thằng Duyệt mà theo địch thì đến cái lông d... của mình nó còn biết nữa là...".

Rồi ở Huế, ba mạ nuôi của anh, đám bạn bè thời sinh viên đang rải khắp cả miền Nam này sẽ biết tin Duyệt "chiêu hồi!". Một anh chàng theo Việt cộng từ những năm sáu mươi ba... Tin này rồi sẽ đến tai Tuyết Minh. Bốn năm xa Huế, Duyệt chỉ có dịp về thăm Huế một lần, dạo Tết Mậu Thân. Duyệt về trong tư thế của một anh đại đội trưởng đại đội chủ công của tiểu đoàn. Ba mươi phút ghé qua nhà chia vui cùng ba má. Ba anh sáng ngày mùng ba Tết đã phải đi rước khách. Anh cũng vội về đơn vị để chuẩn bị đánh phản kích. Trả việc nghĩa cuối cùng cho Tuyết Minh là bố trí cậu giao liên lái chiếc xuồng máy đưa vợ chồng và hai đứa con của Tuyết Minh xuôi sông Hương xuống Vĩ Dạ. Người chồng của Tuyết Minh hơn vợ ngót nghét hai chục tuổi. Trước lúc bước chân xuống đò máy ông ta còn nắm lấy tay Duyệt cảm ơn:

- Các chú bộ đội giải phóng thiệt tốt!

Chỉ có đôi mắt của Tuyết Minh nhìn Duyệt là nói lên tất cả. Vừa biết lỗi, vừa biết ơn. Có một chút gì đó tựa như hổ thẹn, tựa như sự nuối tiếc khi gặp lại người tình thuở áo trắng. Duyệt nhìn ông giáo sư Quốc học rồi nhìn vào đôi mắt của Tuyết Minh.

- Chẳng phiền chi mô ông. Bộ đội cách mạng là rứa đó.

- Xin lỗi, ông cũng là người Huế.

- Dạ.

Tuyết Minh kéo tay áo chồng mà mắt lại nhìn Duyệt:

- Đi thôi anh. Kẻo chú bộ đội chờ.

Ông giáo sư xách chiếc va li vội vã bước xuống con thuyền. Tuyết Minh bồng con lên nói rất nhanh:

- Cảm ơn Duyệt nhiều nghe...

Đứng bên bờ nước của nhánh sông Hương dưới chân cầu Gia Hội, Duyệt thẫn thờ nhìn theo lưng áo Tuyết Minh. Đôi mắt chiều nào vẫn nhìn anh đắm đuối bây giờ đánh mất vẻ hồn nhiên tươi trẻ. Đã có vài vết thâm quầng. Bàn tay nổi gân xanh sau hai lần sinh nở. Chẳng hiểu sao giữa lúc ấy Duyệt lại nhớ tới câu hỏi của Tuyết Minh trong buổi chiều hai người đưa nhau lên chùa Thiên Mụ. Họ bước chầm chậm qua những bậc thang lên sân chùa. Ngôi tháp bảy tầng trầm mặc phủ ngoài lớp rêu phong cổ kính. Những cây dừa thân cao vút, trắng bạc. Không thấy khách vãng lai. Nhìn xuyên qua lớp rào gỗ mới thấy bóng dáng chú tiểu lúi húi cuốc cỏ dưới gốc cây trong vườn. Ngọn gió bấc thổi se lạnh. Họ đứng nép bên nhau tựa lưng vào bức tường thành nhìn ra ngoài mặt sông phẳng như gương. Sau bãi cát vàng ven sông là rặng cây xanh ngắt của làng Nham Biều. Trên bến sông, một người đàn bà giũ áo.

- Anh có tin rằng những người yêu đưa nhau lên chùa Thiên Mụ thường tình yêu bị tan vỡ không? - Giọng Tuyết Minh nhẹ như gió thoảng.

Duyệt lặng im không trả lời. Anh mải nghe tiếng chuông chùa đổ nhịp. Thanh âm trong vắt hòa quyện với tiếng mõ thỉnh đều đều. Cốc cốc, cốc cốc... Ôi! Nếu không có chuyến vượt núi, biết đâu bây giờ Duyệt đã là một giáo sư dạy ở một nơi nào đó, có một tình yêu và một mái nhà yên ấm. Ông ba nuôi hắn đã giải nghệ nghề xích lô. Mạ đã có thể giã từ đôi quang gánh với nồi xương giò hầm, thúng bún...

"Kẻ chiêu hồi", Duyệt lẩm bẩm nhắc đi nhắc lại ba tiếng ấy trong tiềm thức. Chắc chắn phen này anh sẽ lãnh án kỷ luật. Kỷ luật là đúng! Kêu ca vào đâu được. "Thằng Duyệt tiểu đoàn phó đánh nhau có sừng có mỏ ở trung đoàn 5 bị kỷ luật!". Duyệt mường tượng đến cả giờ phút anh sẽ gặp mặt ông Một. Một gương mặt dài sạm nắng. Vết đạn lính bắn ở đồn Hương Thủy làm thành một vết sẹo dài trên má. Duyệt đã từng biết ông sỉ vả những cán bộ chỉ huy dốt nát, ươn hèn để bộ đội hy sinh một cách vô ích như thế nào, cũng như từng biết tấm lòng của một người cha thương lính đến thế nào ở ông trung đoàn trưởng.

Hoạch, nguyên là đại đội trưởng trong đại đội một, đã bị thương ra Bắc điều dưỡng từng bị ông Một xách tai. Trận đánh vào ấp Năm, mũi của Hoạch bị vấp mìn tụi bảo an gài trên con đường trục vào làng. Cối 61 của địch "đấm lưng" đội hình. Trung đội đi với Hoạch một tổ bị hy sinh, số còn lại bẹp xuống bờ ruộng không sao tiếp cận vào rìa làng để thực hiện theo đúng hiệp đồng trận đánh với ba mũi khác. Ông Một bữa đó xuống đại đội 1 và đi theo mũi này, ông nắm lấy tai Hoạch lôi anh ta ra khỏi bờ ruộng. Địch bắn pháo sáng rực một góc trời. Cách địch chưa đầy một tầm súng bộ binh, ông Một quát to như giữa sở chỉ huy trung đoàn. Một tay ông lăm lăm khẩu AK báng gấp lấy từ tay cậu liên lạc trung đoàn đi theo bảo vệ ông.

- Tao cách chức mi. Hoạch à! Chỉ huy cái con c... Đánh đấm chi, súng mới nổ đã chạy.

Rồi cứ vậy, ông nắm luôn cả hỏa lực, cả xung lực đánh ào vào ấp bỏ mặc anh đại đội trưởng chôn chân ngoài ruộng.

Còn Duyệt đã có lần suýt được ông Một tặng cho vài cây gậy hèo. Ấy là ngày anh mới về trinh sát tiểu đoàn. Một tổ đi gùi đạn và TNT (1)ở kho của trung đoàn ngoài gần Bốt Đỏ. Đường từ hậu cứ của tiểu đoàn ra kho phải mất bốn ngày trời. Buổi chiều bên bờ sông Hai Nhánh, cả tổ dừng lại cột võng nghỉ. Duyệt xuống suối bắt cua cá và kiếm rau rừng. Một cậu chiến sĩ được phân công bắc gô nấu bữa ăn chiều. Đang lúi húi dưới suối, Duyệt nghe tiếng quát:

- Bếp của đứa mô đây? Tau bắn chết tụi bay bây chừ. Nấu nướng chi kiểu rứa. Bây muốn kêu phản lực tới bỏ bom hả?

-----

(1) NTNT: Một loại thuốc nổ mạnh.

Duyệt bước lên và nhận ra trung đoàn trưởng. Anh tái mặt. Còn ông Một tay khuơ chiếc gậy hèo gạt đống củi trong bếp vừa mới bén cháy. Củi ướt quá thành thử khói úng lên thành cột.

- Bụi bây lính ở đơn vị mô?

Cậu chiến sĩ nấu cơm trả lời ấp úng:

- Dạ thưa thủ trưởng... chúng em ở tiểu đoàn 10 đi gùi đạn.

- Lính của thằng Bậu mà vậy hả... Tụi bây đi mấy đứa?

Đến lúc ấy Duyệt mới bước ra từ sau tảng đá:

- Chào thủ trưởng ạ.

- Ủa thằng Duyệt hả? Mấy đứa nấu nướng cách chi mà để khói lên um sùm. Tụi bây định phá cơ quan à... - Chợt giọng ông dịu lại - Răng tụi bây nằm đây không vô chỗ đại đội công binh mà ở?

- Dạ, báo cáo thủ trưởng, tụi em ở đây mai đi sớm cho mát - Duyệt đáp.

Chợt ông Một bước xăm xăm lại bên chiếc ăng-gô, tự tay mở nắp:

- Gạo thóc đâu mà tụi bây ăn cháo như ri?

- Quản lý tiểu đoàn cấp cho có bốn lon đi ăn trong bốn ngày. Bữa tối chúng em ăn cháo, để dành gạo nấu cơm bữa mai.

Ông Một nghe Duyệt trình bày chỉ chăm chăm nhìn vào chiếc ăng-gô. Trán ông nhíu lại làm cho vết sẹo trên má khẽ giật giật. Ông vỗ vai Duyệt:

- Cả trung đoàn ta đều thiếu gạo chứ không riêng chi tiểu đoàn 10 mô em. Các em thông cảm cho qua... Phổ ơi! Em mở gùi xúc cho ba đứa trinh sát năm lon gạo.

Cậu cần vụ béo đỏ, tóc cắt trọc, đang dựa gùi trên hòn đá đứng nghỉ, nghe thủ trưởng bảo, khẽ nhăn mặt:

- Thủ trưởng gặp ai cũng cho. Mình lấy gạo mô ăn?

- Chà! - Ông Một vẩy đầu gậy hèo - Lo chi em. Ta hết xin mô chẳng được. Còn hiện thời mấy đứa ni đang đói.

Chắc chắn trung đoàn trưởng cũng nghe được cái tin Duyệt chiêu hồi qua đài phát thanh Huế...

Có tiếng chân bước ngoài cửa hầm. Thiệu vào:

- Anh Duyệt ơi! Dậy ăn cháo!

- Gạo mô nấu cháo?

- Gạo ngụy vất trên bãi, anh Hồng đi bám địch lượm.

- Em để đó cho anh. Lát nữa anh mới ăn.

Đợi cho tiếng chân Thiệu bước xa dần, Duyệt điềm tĩnh rút khẩu súng K.54 vẫn thường để trong bao súng treo ở đầu võng. Anh kề họng súng sát thái dương. Bóp cò!...

Pháo địch dập như giã gạo vào khu vực Đồi Tranh - khe Đá Liếp. Năm trái một đợt bắn. Tiếng nổ này khói bụi chưa dứt, tiếng nổ khác đã chụp xuống.

Mới đầu mọi người ngồi trong căn hầm còn nghe được tiếng đề-pa, ít phút sau, tai ù đặc chỉ còn có cách ngồi nép vào nhau để chịu trận đòn thù không phương đánh trả. Mới đầu Hồng ngồi ở mé ngoài cửa hầm nhưng hơi pháo đẩy dạt anh vào phía trong. Tiếp theo là Phưởng, Thiệu rồi tới ông Duy. Xác Duyệt được phủ bằng một tấm tăng nằm trên sạp cây đùng đình. Mỗi lúc mùi thuốc pháo càng thêm nồng nặc ngột ngạt. Đất từ trần hầm lọt xuống rơi rào rào sau một đợt pháo bắn. Căn nhà lợp lá nón trùm lên căn hầm chỉ đứng vững được không quá hai mươi phút rồi đổ sập do sức giật của một đợt pháo nổ gần.

Hồng bấm đèn pin. Luồng ánh sáng phát ra mờ đục trong căn hầm càng trống trải, lạnh lẽo. Ông Duy ngồi hai tay ôm ngực. Chiếc ruột tượng may bằng vải dù hoa khoác qua vai. Sổ sách giấy tờ ông cho cả vào đó. Ít khi thấy ông rời chiếc ruột tượng. Lúc ngủ nó được làm thành chiếc gối kê đầu.

- Anh Hồng! Tắt đèn pin đi - Thiệu nói.

Thiệu có cảm giác rằng hàng trăm quả pháo đang chơi trò "cả lỗ", chỉ chực nhằm vào căn hầm có ánh đèn pin của Hồng chụp xuống. Gần một năm làm lính tiểu đoàn 10, chưa bao giờ cậu chịu một trận pháo khủng khiếp như lần này. Cậu đâm ra oán Duyệt. Bây giờ anh ta nằm bình thản phó mặc cho mọi sự trên đời sau phát súng ngắn của anh gây ra.

- Không biết mấy đứa B2 ra răng? - Ông Duy phá tan bầu không khí im lặng đến căng thẳng.

Hồng, một tay chống cằm, lẫn trong tiếng pháo đinh tai nhức óc, anh nghe văng vẳng như có tiếng người la. Lại một quả pháo nổ gần làm cho những cây gỗ gác kèo răng rắc. Ông Duy buột miệng kêu lên:

- Chết thôi, tụi bây ơi!

- Hậu cứ vậy là bị lộ rồi, anh Duy. Tôi phải qua chỗ tụi thằng Tống coi thử ra sao nghe.

- Để chờ chút nữa đã. Pháo vẫn còn đang bắn - Ông Duy nói và nhìn chiếc đồng hồ Orien có dạ quang. Tính ra pháo địch đã quần nát trên khu vực của đại đội 3 suốt hai tiếng mười phút.