Một Nửa Đại Đội
Đỗ Kim Cuông
www.dtv-ebook.com

Chương 4

Mười hai giờ đêm, bộ đội hành quân. Một tổ đi trước gạt cây, dọn đường. Nối theo sau là hai cáng tử thương. Cùng với cái chết của Duyệt còn có Nam, chiến sĩ trung đội 2, bị sập hầm. May sao có cây gỗ gác đà do chắc chỉ làm sạt một góc hầm, bốn người úp trong hầm bị đất vùi sây sát qua loa.

Vầng trăng mười tám đã treo lưng trời soi rõ cánh đồng tan nát sau trận pháo cấp tập. Cây cối bị mảnh pháo chém bổ ngả nghiêng không còn nhận ra con đường mòn quen thuộc. Vạt cây hai bên bờ suối bị pháo phát quang. Chẳng biết mái tăng che bếp đã bay đi đường nào chỉ còn trơ ra bốn cây cọc. Sườn đồi phía Tây nơi có hầm của trung đội 2 bị nặng hơn khu vực của đại đội bộ. Mái nhà bay hết, những bụi giang mây rậm là thế đều bị pháo tiện sát gốc để lộ những cửa hầm kèo tối om. Không gian tanh mùi thuốc pháo, lờm lợm.

Cả đoàn người lặng im. Thỉnh thoảng mới nghe thấy tiếng lách cách của những băng đạn bị cây rừng quệt vào. Đội hình hành quân đi chậm; lâu lâu mọi người phải dừng lại, chờ người khiêng cáng đổi vai. Vào sâu trong rừng đi dưới tán cây, trời tối càng khó đi hơn. Có đoạn con đường trường xuống suối. Tiếng lội nước bì bõm dọc theo lòng khe.

Ông Thọ được báo trước ra đón bộ đội ở ngoài ngã ba con đường trục lối rẽ vào hậu cứ của huyện. Một bộ phận đi chôn cất tử sĩ sang hướng khác, Hồng đã cử một tổ đi trước đào huyệt.

Duyệt và Nam được bọc kín trong hai tấm tăng lớn. Họ được chôn trong một khoảng rừng quang đãng "do" mấy trái bom Mỹ thả từ dạo Tết Mậu Thân. Ở đấy đất mềm hơn và cao, tránh được những cơn lũ, cơn mưa dầm kéo dài hàng tháng ở miền này. Hố huyệt mới đào sâu được chừng nửa mét. Toán người đến sau bỏ súng xuống đào thay cho tổ kia lên nghỉ.

Chiếc xẻng Mỹ trong tay Cường nóng bỏng, nhớp nháp mồ hôi. Mùi đất hăng ngái. Cường vừa đào vừa nghĩ tới Nam, người bạn thân của cậu, nước mắt ứa ra không sao kìm lại được.

Cả đại đội 3 đều gọi Nam bằng cái tên Nam Mực để phân biệt với hai cậu Nam khác trong đại đội có biệt danh là Nam Phở, Nam Rỗ. Tên gọi ấy gắn với nghề nghiệp của gia đình Nam, chuyên sản xuất mực viết cho cả làng. Cùng học phổ thông cấp III với Cường, nhập ngũ vào chiến trường, Nam là đứa thứ bảy hy sinh sau Thắng Hiển, Tí Bẹp, Thành, Chiến Kỳ, Bá, Nghi. Ở cùng trong một tiểu đoàn, nhưng lâu lâu Cường mới được gặp một người bạn học.

Thực ra ngày còn đi học, Cường không ưa Nam Mực. Nó hay diện bảnh làm dáng trước đám con gái. Và mỗi khi chơi đáo, thằng Nam hay "chọi nhảy", thường đấy là lý do để gây ra những cuộc cãi lộn trong đám trẻ. Nó là đứa già mồm cãi nhất trong những trận đá bóng, chỉ thiếu nước đấm nhau sứt đầu, mẻ trán vì một cú sút. Cột gôn là đống sách vở hoặc hòn gạch. Những cú sút hiểm hóc của hàng tiền đạo mà Cường là một mũi nhọn khó thể phân định trái bóng trúng cột mô-tô hay vào góc chết. Nam Mực thủ môn và thủ cả vai cãi...

Giặc Mỹ ném bom sập cầu Bo và tàn phá nhiều khu nhà dân trong thị xã. Đám học trò cấp III phải chuyển sang học tối. Chín giờ tan lớp. Cái mùi hoa sữa trải dọc theo con đường Lê Lợi, Trưng Trắc đeo đẳng đám học trò giữa lúc bụng đói. Những lớp học buổi tối không trụ được lâu. Máy bay Mỹ ném bom vào thị xã không kể giờ giấc, mưa gió. Trường cấp III được dời về một vùng thôn quê hẻo lánh. Các cậu học trò lớp 10 vừa muốn làm người lớn trước đám trẻ con nhà quê, và trước các cô bạn gái cùng lớp mới qua kỳ nghỉ hè chợt lớn phổng phao ra dáng một thiếu nữ. Nhưng các cậu cũng chưa muốn dứt bỏ tuổi thơ một cách dễ dãi. Đi trọ học trong nhà dân, ở thôn Thắng Cựu, đêm đêm vẫn say với ván đáo lỗ đánh dưới ánh sáng của bốn ngọn đèn "Hoa Kỳ" nhảy múa. Reo như vỡ chợ khi cặp "tan đôi", "tan ba" bị đánh bung ra dưới sức quật ngã của đồng xu cái. Chỉ khi nào đầu ngõ con chó vàng của nhà ông Xứng sủa vang, nghe tiếng guốc mộc gõ xuống nền gạch của ông giáo chủ nhiệm đi kiểm tra sự học của đám học trò, cả lũ mới cầm đèn ù té nhảy lên giường, ngồi vào bàn học i a hoặc vẽ nhăng vẽ cuội các hình thù trong cuốn vở nháp.

Chao ôi! Những lá đơn xin nhập ngũ vào miền Nam chiến đấu viết bằng máu của tuổi mười sáu. Anh trung úy thị đội phó cầm đơn, vừa giải thích luật nghĩa vụ quân sự vừa rút khăn lau mùi xoa hỉ mũi che giấu sự xúc động. Buổi chiều tháng 6, đám học trò phổ thông giã từ bạn bè, cha mẹ lên đường. Nhưng đôi mắt đỏ hoe. Đoàn tân binh đi trong ánh hoàng hôn của buổi chiều tà, suốt dọc theo con đường với những dãy phố hoang tàn, trơ trụi, các bức tường gạch đã bị bom Mỹ ném sập. Ngôi nhà thờ tái xám lừng lững hai ngọn tháp nhọn chĩa lên nền trời. Nhà thờ cũng bị bom Mỹ ném trúng phòng thay áo của Đức cha. Cây cầu phao dập dềnh trên mặt sông Trà Lý đang vào mùa con nước lớn. Cách đấy không xa là cây cầu sáu nhịp mười hai vai cong cong như một vành lược bị chặt gãy khúc giữa đứng chơ vơ. Rất xa, phía Nam Định vọng tiếng bom rền.

Chiến tranh đã bốn năm loang ra trên miền Bắc. Đám trẻ tự coi mình là những người lính chậm trễ. Những lúc rảnh rỗi chỉ có hai đứa, Cường và Nam Mực thường nhớ tới những kỷ niệm của tuổi học trò. Cái ngây thơ và nồng nhiệt, cái xấu và cái tốt của tuổi trẻ cứ đan quyện vào nhau, hiện lên thực đáng yêu.

Nam Mực làm công vụ cho tiểu đoàn, sau về trinh sát. Dũng cảm, mưu mẹo khi bám địch. Chỉ tội hơi gàn.

Chiều qua hai đứa đói vàng mắt, đi bám địch về còn cố leo thác nước kiếm thêm ít môn vót. Con suối đá nước lắp xắp quá mắt cá chân. Lâu lâu mới gặp một vài vũng sâu.

- Cường! - Thằng Nam hơi hếch nòng khẩu B.40 đã có đạn lên cao. Ước gì giờ có nồi cơm nóng và đĩa rau muống chấm tương nhỉ. Mà thôi, ăn muối trắng cũng được. Eo ôi, tao nói mà nước dãi cứ tứa ra. Mày có thèm không Cường?

Bây giờ thằng Nam đã hy sinh rồi. Thằng Sơn lên Hang Đá không biết, thằng Tùng không biết. Ai ngờ đêm nay chỉ có một mình Cường đi chôn Nam Mực. Mồ hôi và nước mắt cứ quyện lẫn vào nhau rơi xuống mặt, xuống cổ Cường. Nhát cuốc bổ vào một hòn đá tóe lửa, Cường ngẩng lên.

- Em khóc hả? - Hồng đến bên Cường từ lúc nào cầm lấy chiếc xẻng - Đừng khóc em ạ. Chúng ta sẽ trả thù cho Nam.

Thi hài Nam và Duyệt được đặt xuống hai chiếc hố. Lớp đất đào xuống sâu ẩm mát. Từng đoạn cây ngắn, cành lá trùm phủ lên thân thể họ.

Ở một đầu mộ, ông Thọ đứng cạnh ông Duy. Một người cao, một người thấp. Nước da ông Thọ ở hầm lâu ngày trắng xanh dưới ánh trăng trong vắt. Ông mặc bộ đồ bà ba màu lá cây, ngang vai cũng khoác một chiếc ruột tượng may bằng dù hoa đựng sổ sách, tài liệu. Bộ đội đứng vòng quanh, không gian im ắng đến dễ sợ. Tiếng pháo giội xuống hậu cứ đại đội 3 đã dứt lâu rồi. Cả tiếng tụi lính ngụy gác trên mỏm đồi Chóp Nón cũng câm bặt. Cái âm thanh duy nhất để người ta còn biết đang ở cận gần địch là năm ba phút một lần thằng lính gác trên đồi Chóp Nón gõ vào chiếc ống loong, hoặc giả cho đỡ buồn ngủ, hoặc giả để báo rằng hắn vẫn còn thức và đang ngồi gác ở chỗ này.

- Các đồng chí ạ - Ông Thọ phá tan bầu không khí im lặng một lát - Huyện ủy cũng có lỗi với các đồng chí... Các đồng chí cứ trách tôi đi.

Từng ấy con người đang trầm mặc cúi đầu ngước lên nhìn ông bối rối... Gương mặt của người bí thư huyện ủy già đau khổ. Ông gục xuống, mái tóc bạc trắng.

***

Khu hầm cũ của đơn vị biệt động huyện chật, không đủ chỗ mắc võng. Một số chiến sĩ của đại đội 3 phải mắc võng nằm trên hầm.

Cường và Thiệu chưa ngủ. Hình như ở dưới góc cây đầu hầm đằng kia, anh Hồng cũng chưa ngủ được. Cả hai đứa đều nằm im và chờ đợi. Không ai biết được ý đồ của Cường và Thiệu đang lăm le định thực hiện một "phi vụ". Chúng chỉ chờ cho mọi người ngủ hết. Người nôn nóng hơn cả là Thiệu. Nó đã định kéo Cường đi ngay từ lúc mắc xong hai chiếc võng và cố ý tuồn vào võng chiếc gùi: khẩu súng AK trùm lên trên bằng mảnh vải chăn. Không để ý dễ nhầm tưởng trên võng có người đang nằm ngủ. Khôn ngoan hơn, trong lúc dọn căn hầm ngoài chỗ của ông Duy, Thiệu còn dành để một chỗ cho anh Hồng. Hồng đi chôn tử sĩ về không chịu nằm hầm mà bắt Phưởng xuống nằm đó để tiện việc theo dõi bệnh tình cho thủ trưởng tiểu đoàn. Anh lên trên mặt hầm chọn cây mắc võng.

Có lẽ đã quá hai giờ sáng. Ở một gốc cây, con tắc kè gióng giả kêu than năm tiếng. Trong lúc thu xếp chỗ ở mới, vốn là khu hậu cứ cũ của huyện đội, vô tình Thiệu đã phát hiện ra một cái kho bí mật. Thằng Thiệu mừng rơn khi chính tay nó khi lần ra cửa hầm, tìm thấy trong đống đạn B.40, B.41 một chiếc bao cát đựng bốn năm lon sữa "Ông Thọ". Thằng Thiệu đã định lấy ngay đem về nhưng nghĩ sao lại thôi. Nó ngụy trang lại cửa hầm như cũ và tìm gặp Cường. Hai đứa kéo nhau ra một chỗ để bàn bạc. Thoạt nghe, Cường cũng mừng. Đều đói như nhau, đều khao khát thèm muốn như nhau cả. Bữa cháo chiều coi như đi tong rồi. Từ lúc quả pháo điểm nổ vào cứ, mọi người đều vội vàng chui xuống hầm. Chiếc soong nhôm Liên Xô, mảnh pháo xé nát.

Hai đứa chỉ chờ cho mọi người an giấc. Nhưng anh Hồng vẫn chưa chịu ngủ. Anh trằn người trên chiếc võng nilon quay lưng về phía Thiệu và Cường. Không kiên gan được, thằng Thiệu quờ tay sang véo vào đùi thằng Cường một cái. Không một tiếng động nhỏ. Hai cái bóng luồn nhanh qua thân cây giang đổ lửng chắn ngang con đường mòn nhỏ dẫn ra ngoài hố xí. Bốn mũi bàn chân lách giữa đám lá cây khô, bàn tay gạt nhẹ những cành cây nhỏ xòe ra chặn lối, Thiệu đi trước Cường bám sát theo sau. Thỉnh thoảng Thiệu nhẹ nhàng nhắc những cọng lá mây khô đầy gai để sang cạnh đường.

- Hay là thôi mày? - Cường rụt rè.

- Sợ à? - Thiệu quay lại ngạc nhiên - Sợ đếch gì?

- Ông Duy, ông Hồng biết, trị cho bạc máu. Tụi mình đã đi ở nhờ nhà người ta lại đi ăn cắp của họ.

- Ôi dào! Thủ trưởng cũng đói, lính cũng đói. Trị cái nỗi gì.

- Nhưng biết đâu mấy hộp sữa họ cất dành cho thương binh.

- Binh với biếc chi. Làm tới đi Cường. - Giọng Thiệu quả quyết. Nó lò dò lách chân qua đám gai mây.

- Thôi đừng, Thiệu. Tao nghĩ rồi. Tụi mình không nên làm thế.

- Ô hay. Mày nhát như thỏ ấy. Biết vậy tao chẳng nói với mày cho xong.

- Mày nói với ai cũng vậy thôi. Tao cũng đói, mày cũng đói. Anh em mình đều đói cả. Nhưng miếng ăn là miếng nhục mày ạ. Thèm vào.

- Được thôi, - Thiệu tặc lưỡi - Mày sợ thì mày về đi. Tao lấy tao chịu. Mày coi như là không biết.

- Không nên, Thiệu ạ. - Cường nói dứt khoát - Hãy nghe tao. Chẳng no béo gì. Nhưng mấy đứa bên huyện đội lại đồn um lên lính đại đội 3 ăn cắp. Danh dự chẳng phải của riêng mày hoặc riêng tao mà là của cả đại đội. Ráng chịu, mai tao đi đồng bằng với anh Hồng, đi lọt được sẽ có ối gạo. Tao sẽ cho mày ăn một bữa lòi kèn.

Cường lùi lũi quay trở lại. Thằng Thiệu nhìn cửa kho khuất sau bụi mây, chỉ còn cách nó không đầy hai mét, vừa tiếc rẻ, vừa hậm hực với Cường. Chần chừ giây lát, nó quay ngoắt lại bước theo bạn. Như những con mèo rừng, hai đứa leo lên võng nằm không một tiếng động. Chúng nó đã có thể cựa mình trong chiếc võng bạt và đưa tay gỡ đất dính dưới bàn chân. Tuyệt nhiên không đứa nào nói với đứa nào một câu.

Ở phía bên kia bờ suối, một con tắc kè khác buồn bã kêu than. Cường đếm được sáu tiếng. Chẳng lẽ ngày mai mưa? Đạp rừng trời mưa là khổ nhất. Cường nằm ghếch đầu lên một thành võng, mắt lơ đãng nhìn ánh trăng giải vàng ngoài bãi trắng.