Câu có trạng ngữ đặt ở đầu vốn là một kiểu câu thông dụng trong tiếng Việt. Cũng như khi được dùng ở vị trí khác, trạng ngữ ở vị trí đầu câu có thể chỉ nơi chốn, thời gian, điều kiện, nguyên nhân, phương thức, trở ngại, và cũng có thể cấu tạo bằng một giới ngữ (tổ hợp mở đầu bằng một giới từ), một tính ngữ, một động ngữ, v.v.. Nói chung, bất kỳ trạng ngữ nào, đã có thể dùng ở phía sau động từ hay ở một vị trí khác trong câu, thì đều có thể dùng ở đầu câu. Có chăng chỉ trừ những trạng ngữ phương thức mở đầu bằng một cách, chỉ dùng sau động ngữ.
Dĩ nhiên, về phương diện cú pháp, khi đặt ở đầu câu, trạng ngữ vẫn giữ chức năng trạng ngữ, nhưng về phương diện nội dung thông báo, ở vị trí này trạng ngữ có cương vị đề (hay chủ đề) của câu, và do đó dễ bị lẫn lộn với những thành phần khác của câu có cương vị chủ đề, nhất là chủ ngữ. Khi đã nhầm trạng ngữ với chủ ngữ, họ sẽ dùng sau trạng ngữ đó những động từ không phải là động từ vô nhân xưng, nghĩa là những động từ đòi hỏi một chủ ngữ như cho, làm cho, cho phép, đòi hỏi, khiến v.v..
Mặt khác, nếu trạng ngữ đặt ở đầu câu là những giới ngữ hơi dài và hơi phức tạp, nhất là khi giới ngữ này mở đầu bằng một động từ dùng như giới từ, chẳng hạn như qua, đến, về, thừa, nhận, hoặc khi trung tâm trạng ngữ là một động từ không có chủ ngữ hoặc một mệnh đề mà chủ ngữ là một danh từ chỉ một bộ phận của vật hay người được biểu thị bằng chủ ngữ của câu, chẳng hạn như trong tay cầm sách, anh bước vào phòng, học sinh dễ nhầm trạng ngữ với một câu (một mệnh đề độc lập) và do đó có thể dùng những liên từ không đúng chỗ.
Nói một cách vắn tắt, tất cả cái cơ chế của những lỗi ngữ pháp trong cách dùng câu có trạng ngữ đặt ở đầu chỉ có thế. Tuy nhiên, có một vấn đề lý luận cần bàn thêm chút ít.
Có thể có nhiều giáo viên hay nhà nghiên cứu không nhất trí với chúng tôi khi chúng tôi nhận định những trường hợp nói trên là những lỗi. Quan điểm của họ có một cơ sở rất vững vàng là biên độ phổ biến rất lớn và tần số xuất hiện rất cao của những kiểu nói hay viết mà chúng tôi cho là sai. Quả nhiên, chỉ cần đọc một số báo hàng ngày, nghe một buổi phát thanh, hay xem một buổi truyền hình cũng có thể nhặt ra được vài ba chục câu phạm lỗi khi dùng trạng ngữ ở phần đầu như thế. Điều đó khiến ta phải suy nghĩ kỹ xem tại sao người Việt phạm lỗi kiểu này nhiều đến thế: Phải chăng đó là một xu hướng tự nhiên của tiếng Việt?
Như trên kia đã nói, trạng ngữ hay bị nhầm với chủ ngữ khi được đặt ở vị trí chủ đề vốn là vị trí tiêu biểu của chủ ngữ. Vấn đề nên đặt ra ở đây là phải chăng trong tiếng Việt không làm gì có sự phân biệt giữa chủ đề và chủ ngữ, và chính điều đó cho phép người Việt dùng trạng ngữ ở chỗ lẽ ra phải có chủ ngữ?
Theo ý chúng tôi, trong tiếng Việt vai trò của chủ ngữ trong câu quả không quan trọng bằng vai trò của chủ đề. Chức năng cú pháp của một ngữ đoạn, trong đó có chức năng chủ ngữ mà nội dung ngữ nghĩa tiêu biểu nhất là chỉ kẻ (vật) hành động, hay mang tính chất, hay trải qua trạng thái (khác với bổ ngữ mà nội dung tiêu biểu là chỉ kẻ (vật) làm đối tượng hay mục tiêu cho hành động hay vận động) và với các chức năng khác, trong đó có chức năng trạng ngữ, lệ thuộc rất nhiều vào nghĩa của từ ngữ, đến nỗi nhiều khi rất khó xác định đâu là chủ ngữ, đâu là bổ ngữ. Chẳng hạn trong hai câu:
Bác sĩ N. mổ rồi và Bệnh nhân N. mổ rồi
ta khó lòng mà căn cứ vào vị trí để xác định bệnh nhân là chủ ngữ hay là bổ ngữ,[1] tuy ta biết rõ bác sĩ chắc phải là người làm cái việc mổ, còn bệnh nhân chắc phải là kẻ được người ta mổ cho.
Mặt khác, vị trí đầu câu của bác sĩ và bệnh nhân cho phép ta khẳng định một cách chắc chắn rằng cả hai đều là chủ đề của câu. Vậy liệu có thể nói rằng khi đã đứng ở vị trí đầu câu làm chủ đề rồi thì không có sự phân biệt về chức năng cú pháp hay không? Trước đây đã có nhà nghiên cứu chủ trương rằng trong những câu như Trên trời có đám mây xanh, trên trời là chủ ngữ của có, và đồng thời cho rằng trong tiếng Việt chủ ngữ chẳng qua là một thứ phụ ngữ ngang hàng với bổ ngữ hay trạng ngữ, cho nên hễ cái gì đứng trước động từ thì đều có thể coi là chủ ngữ. Nếu theo quan niệm này thì quả những cách nói mà chúng ta cho là sai đều phải coi là bình thường.
Tuy nhiên sự tình không phải đơn giản như nhà nghiên cứu nói trên nghĩ. Giữa trên trời có mây hay trời có mây với trời có mắt có một sự khác biệt rất rõ ràng: Trong hai câu trước, trời là trạng ngữ, và có là một động từ “tồn tại” vô nhân xưng. Sở dĩ có thể bỏ trên được là nhờ chủ nghĩa không gian của trời. Còn trong câu sau, trời là chủ ngữ của động từ ngoại động có mang ý nghĩ, sở hữu, cho nên không thể thêm trên: trên trời có mắt là một câu không thể chấp nhận được.
Mặt khác, trong tiếng Việt trạng ngữ đứng đầu câu nhiều khi có thể bỏ đi được. Tuy khi bỏ trạng ngữ, câu có thể khác nghĩa đi, nhưng về ngữ pháp nó vẫn là một câu có vẻ như chấp nhận được, tuy không phải là một câu đúng. Điều có thể giúp ta hiểu tại sao coi những câu như Trong tình hình đó đòi hỏi ta phải cố gắng hay Trong gian khổ nhưng anh vẫn không sờn lòng là những câu sai ngữ pháp, vì giới ngữ (ngữ đoạn mở đầu bằng giới từ) không thể làm chủ ngữ hay làm câu mà chỉ có thể làm trạng ngữ, và khi bỏ hai trạng ngữ mở đầu bằng trong trên đây câu trở nên không chỉnh. Câu trước thiếu chủ ngữ, còn câu sau không có phần tiền đề cho phép dùng nhưng.
Nói tóm lại, trong tiếng Việt vẫn có sự phân biệt về ngữ pháp giữa chủ đề chủ ngữ và chủ đề trạng ngữ, cho nên cần tập cho học sinh phân biệt thật rõ giữa hai bên, và thấy rõ ràng sự lẫn lộn giữa hai chức năng này đưa đến chỗ dùng sai vế sau của câu. Thay vì Trong tình hình đó đòi hỏi ta phải cố gắng, phải nói 1. Trong tình hình đó, ta phải cố gắng, hay 2. Tình hình đó đòi hỏi ta phải cố gắng.
Mặt khác, học sinh cần phân biệt thật rõ những động từ có thể khuyết chủ ngữ và những động từ vô nhân xưng với những động từ cần có chủ ngữ (chủ ngữ đó chính là cái mà học sinh trình bày thành một trạng ngữ).
Theo thống kê của chúng tôi, những lỗi về cách dùng câu có trạng ngữ đặt ở trước đặc biệt phổ biến và dễ mắc trong những câu tương đối dài, và nhất là khi chính cái trạng ngữ hữu quan làm thành một cụm từ phức hợp trong đó có nhiều định ngữ, nhất là định ngữ làm thành mệnh đề. Chẳng hạn trong câu:
“Đã đành rằng ai cũng sẽ chết, nhưng với một nhà thơ yêu cuộc đời, yêu sự sống, yêu tình yêu, tuổi trẻ, yêu thơ ca, yêu bè bạn như vậy, giờ đây đã thành người của thế giới khác rồi”.
Ta thấy có hai lỗi: thứ nhất là câu chưa hết (một nhà thơ như thế mà mất sớm thì thế nào chứ?); thứ hai là từ với làm cho câu không còn chủ ngữ nữa. Những lỗi này sở dĩ phạm phải là vì câu hơi dài và khi viết đến phần cuối tác giả đã kịp quên mất mình đã viết cái gì ở phần đầu.
Do đó khi tập phân tích lỗi cũng như khi tập đặt câu, cần có một quá trình tuần tự đi từ những câu ngắn như “với một nhà thơ trẻ như thế mà nay đã mất rồi” kế đến là “Ai rồi cũng sẽ chết, nhưng một nhà thơ như thế mà nay đã mất rồi” trong đó học sinh sẽ rất dễ nhận thấy lỗi và phân tích nó, rồi tiến dần đến những câu phức tạp như câu đã dẫn trên kia, cho đến khi nào học sinh phát hiện được một cách nhanh chóng và “máy móc” những lỗi tương tự dù có bị che khuất dưới một mớ từ ngữ phụ rườm rà, và bản thân họ khi viết văn dù có dùng nhiều từ ngữ rườm rà bao nhiêu cũng vẫn nhớ được cái cấu trúc lõi của câu.
[1] Nói cho đúng hơn, vấn đề ở đây là phân biệt giữa nghĩa chủ động và nghĩa bị động. Chúng tôi tạm coi bệnh nhân là “bổ ngữ” làm chủ đề như một số tác giả chủ trương.