6. Những lỗi kiểu “Tay nó cầm cuốn sách, bước ra sân” hay “Nó bước ra sân, tay nó cầm cuốn sách”

A. Phân tích lỗi: Đây là một kiểu lỗi hay gặp khi học sinh hiểu sai kiểu câu có trạng ngữ là một mệnh đề có chủ ngữ là một bộ phận của nhân vật được biểu thị bằng chủ ngữ của phần chính, chẳng hạn như:

“tay cầm cuốn sách, nó bước ra sân”

“mắt rưng rưng, nó quay mặt đi”

“nó bước vào, môi mỉm một nụ cười khó hiểu”

Loại trạng ngữ này mô tả một tư thế, một trạng thái của nhân vật, được thể hiện cùng một lúc với hành động của nó ở phần chính. Đặc điểm của loại trạng ngữ này là cái bộ phận làm chủ ngữ không có định ngữ chỉ sở hữu. Nếu thêm định ngữ này, mối quan hệ lôgích, thời gian và cú pháp giữa trạng ngữ với phần chính sẽ mất đi như trong câu “tay nó cầm cuốn sách, nó bước ra sân” và đôi khi sẽ có sự nhầm lẫn về chủ ngữ của phần chính.

B. Sửa lỗi: Bỏ định ngữ sở hữu

Kiểm tra lại xem chủ ngữ của phần chính có đúng là sở hữu của cái bộ phận dùng trong trạng ngữ không. Chẳng hạn:

Tay vẫn khư khư ôm quả bóng, anh nó tát cho nó một cái xính vính làm cho quả bóng bật ra, lăn xuống đất.

Sửa: Tay nó vẫn khư khư ôm quả bóng. Anh nó tát...

hoặc: Tay vẫn khư khư ôm quả bóng, nó bị anh nó tát...

C. Những trường hợp tương tự:

1. Mắt đăm đăm nhìn ra cửa bể, ta thấy Kiều dõi theo bóng cánh buồm thấp thoáng mà nghĩ đến cảnh cô đơn của mình.

2. Vó ngựa phi nhanh trên quãng đường đá, chàng hiệp sĩ ngoái nhìn về phía quê nhà.

3. Em bé ngạc nhiên nhìn ông già say rượu, tay vuốt bộ râu bạc.

4. Đôi mắt tinh tường ghi nhận những chi tiết tế nhị mà tiêu biểu, ta hiểu tại sao tác giả dựng lên được những bức tranh đậm đà như vậy.

5. Tai lắng nghe tiếng chuông chiều, miệng lẩm bẩm tụng kinh, hoàng hôn đã dần dần trùm lên đôi vai gầy gò của nhà sư trẻ tuổi.

6. Ông lão nhìn con chó, đuôi vẫy lia lịa.

7. Chàng dũng sĩ lao về phía con quái vật, mồm ngoác to bằng cái miệng thúng.

8. Chân anh mỏi nhừ, anh lê bước trên đường, lòng anh khắc khoải.

9. Mắt ông cố nhắm thật kỹ, ném mạnh hai hòn đá ra.

10. Chân ông vừa bước nhanh vừa buông ra những câu chửi rủa tục tằn.

11. Bụng đói như cào, con thỏ chết làm cho nó thèm rỏ dãi.

12. Bốn bánh lăn vun vút, người lính lái chiếc xe băng qua đèo.

13. Lưỡi ánh lên sáng quắc, viên tướng vung thanh gươm ra lệnh tiến quân.

14. Mũi rẽ sóng đại dương, viên hoa tiêu lái chiếc tàu về hướng Bắc.

Bị chú: Ở đây, còn có thể gặp những lỗi như ở mục III, IV. Chẳng hạn, đáng lẽ viết:

Lòng mừng khấp khởi, anh lập tức lên đường.

học sinh có thể viết:

Lòng mừng khấp khởi nhưng anh lập tức lên đường.

Lòng mừng khấp khởi nhưng anh vẫn lập tức lên đường.

Lòng mừng khấp khởi khiến anh lập tức lên đường.

Đó đều là những lỗi vi phạm quy tắc chung về cách đặt câu có trạng ngữ đi trước. Cũng như kiểu câu ở mục III, kiểu câu này (ở dạng đúng) chủ ý không cho thấy rõ quan hện (phương thức, nguyên nhân, chỉ định) của trạng ngữ đối với phần chính của câu.

D. Bài tập:

1. Phân tích và sửa những lỗi trong các câu trên (ở phần C).

Mẫu sửa lỗi:

(1) Ta thấy Kiều, mắt đăm đăm nhìn ra cửa bể, dõi theo cánh buồm thấp thoáng... [6]

(2) Trong khi vó ngựa phi nhanh trên quãng đường đá, chàng hiệp sĩ ngoái nhìn về phía quê nhà.

(3) Em bé ngạc nhiên nhìn ông già say rượu đang đưa tay lên vuốt bộ râu bạc.

(4) Sở dĩ tác giả dựng lên được những bức tranh đậm đà như vậy là nhờ đôi mắt tinh tường của ông đã ghi nhận những chi tiết tế nhị mà tiêu biểu.

(5) Tai lắng nghe tiếng chuông chiều, mồm lẩm bẩm tụng kinh, nhà sư trẻ tuổi cảm thấy hoàng hôn đã dần dần trùm lên đôi vai gầy gò của mình.

(6) Ông lão nhìn con chó đang vẫy đuôi lia lịa.

(7) Chàng dũng sĩ lao về phía con quái vật đang ngoác mồm to như cái miệng thúng.

(8) Chân mỏi nhừ, lòng khắc khoải, anh lê bước trên đường.

(9) Mắt cố nhắm thật kỹ, ông ném mạnh hai hòn đá.

(10) Chân vẫn bước nhanh, ông buông ra những câu chửi rủa tục tằn.

(11) Bụng đói như cào, nó nhìn con thỏ chết mà thèm rỏ dãi.

(12) Bốn bánh lăn vun vút, chiếc xe do người lính lái băng qua đèo.

(13) Lưỡi ánh lên sáng quắc, thanh gươm của viên tướng vung cao: đó là hiệu lệnh tiến quân.

(14) Mũi rẽ sóng đại dương, chiếc tàu được viên hoa tiêu lái về hướng Bắc.

2. Tập đặt câu:

a. Diễn đạt các ý sau đây bằng những câu có trạng ngữ mệnh đề theo kiểu đang xét.

(1) Con chó cố mở thật to đôi mắt nhìn theo ông chủ.

(2) Cô thư ký ngẩng cao mái đầu lên, đi qua dãy ghế đầu.

(3) Trong khi tôi trao thư cho nó, tim tôi đập rộn rã.

(4) Văn nhặt mấy mảnh vụn mà cảm thấy lòng đau như cắt.

(5) Hắn vừa rón rén bước vào vừa run bắn cả chân tay lên.

Trả lời:

(1) Đôi mắt cố mở thật to, con chó nhìn theo ông chủ.

(2) Mái đầu ngẩng cao lên, cô thư ký đi qua dãy ghế đầu.

(3) Tim đập rộn rã, tôi trao bức thư cho nó.

(4) Lòng đau như cắt, Văn nhặt mấy mảnh vụn lên.

(5) Chân tay run bần bật, hắn rón rén bước vào phòng.

b. Viết tiếp những câu bỏ dở sau đây bằng cách diễn đạt nội dung của phần câu đóng ngoặc.

(1) Mắt không rời con chuột, (cánh con cú mèo giang rộng, nó sà xuống).

(2) Hai tay buông thõng, (miệng của Ba há hốc, mắt của Ba giương lên nhìn con rắn).

(3) Tâm trí vẫn còn bàng hoàng (chân Nguyên bước thẫn thờ, như cái máy).

(4) Trong tai vẫn còn văng vẳng tiếng kêu ấy, (tay chị Dậu run rẩy ghì thằng Dần thật chặt).

(5) Tay khỏi rồi, (bạn bè sẽ cùng em đi bơi).

Trả lời:

(1) ... con cú mèo giang rộng cánh sà xuống.

(2) ... miệng há hốc Ba giương mắt nhìn con rắn (hoặc: Ba há hốc mồm, giương mắt nhìn con rắn).

(3) ... Nguyên đưa chân bước thẫn thờ như cái máy.

(4) ... chị Dậu ghì thật chặt thằng Dần trong đôi tay run rẩy.

(5) ... em sẽ cùng bạn bè đi bơi.



[6] Sở dĩ câu này có thể chấp nhận được, khác với câu (6), là vì dùng thấy, một động từ tri giác, khác với động từ nhìn ở câu (6), vốn là động từ hành động.