- Đám ma cụ Bá Tr.Th. chắc là lớn lắm. Hôm nọ, khi mà cụ ấy giở chứng, tưởng chừng không thể qua khỏi, ông Lý, con cụ, đã cho người nhà đi tậu sáu, bảy con trâu và nhờ họ mạc xay hộ hơn trăm thúng gạo tám thơm, ấy là chưa kể bò, lợn, gạo nếp.
- Thôi, còn phải nói! Trước kia nhà ấy đã có tiếng giàu. Từ năm vỡ đê Canh Dậu, đồng làng Tr.Th. được bồi mấy thước phù sa, những ruộng chiêm khô, mùa thối đều thành ra nhất đẳng điền, nhà cụ lại càng giàu bội. Giết bao nhiêu trâu, ăn bao nhiêu gạo mà chẳng được.
- Nghe đâu quan tài còn để trong nhà ba, bốn ngày nữa mới đưa ra đồng, nhưng đã bắt đầu ăn uống từ bữa trưa hôm nay. Người ta bảo rằng: Ông Lý sẽ mời nhiều nóc đến tế: ngày mai tư văn trong làng, ngày kia chức sắc hàng xã, ngày kìa thân hào hàng tổng; hàng tổng, hàng xã, mỗi nóc chỉ tế một tuần, còn làng thì tế ba tuần. Đám ấy chắc là vui lắm.
Những người đi chợ kháo nhau như thế trong khi có tin cụ Bá Tr.Th. từ trần.
Té ra thế gian lại có cái đám ma vui. Tôi rất muốn được tới nơi tìm thêm hạnh phúc cho hai con mắt. Chết vì với nhà ấy, tôi chỉ là người cùng tổng, không có họ hàng quen thuộc gì hết. Thế thì lấy danh nghĩa gì mà vào trong đám? Đóng vai đi xem thì không được rồi.
Bỗng có thư của tang gia cậy người đưa lại. Thư bằng chữ Hán, đại ý nói rằng: "Chúng tôi bất hiếu, thân phụ chúng tôi đã bỏ chúng tôi từ sáng hôm nay. Anh em chúng tôi vâng mệnh thân mẫu, định đến ngày... thì nộp lệ làng. Vậy tới ngày đó, xin rước các ngài tạm dời gót ngọc tới tệ xá, dạy bảo lễ nghi, thì kẻ còn, người mất đều được cảm ơn...".
Nhìn ở cuối thư, chỗ tin những người bị mời, thấy có tên rõ ràng. Thì ra ngoài đám thân hào dự tế, hiếu chủ còn mời tất cả những người có tiếng trong tổng, bất kỳ người quen hay người không quen.
Thật là buồn ngủ gặp chiếu manh, may cho tôi quá. Đúng ngày hẹn, tới tang gia ngay từ sáng sớm, với một món đồ lễ, không bạc không hậu.
Cách cổng nhà chủ độ vài chục bước, đã ngửi thấy mùi thịt trâu. Bước vào trong sân, mùi thịt trâu lại càng nồng nực, tôi đã lợm giọng, rức đầu, cực kỳ khó chịu, nhưng trót vào tới đó, không thể lùi ra, đành phải mạo hiểm tiến đến trước rạp.
Khách khứa đã đông nghìn nghịt. Người ta mời tôi ngồi lên chiếc phản giữa rạp sau khi người đón đồ lễ đã dùng mâm đồng mà đệ đồ lễ của tôi vào bàn thờ.
Hiếu chủ cúi mặt xuống đầu gậy tre, lom khom từ trong bậc cửa đi đến chỗ tôi. Ông ta gật đầu chào tôi và giơ ống tay áo sô bưng miệng mời tôi vào ngồi trong nhà. Đó là người ta đãi tôi vào bậc thượng khách. Nhưng tôi nhất định từ chối. Không phải là sự khiêm tốn, chỉ vì tôi cân nhắc rằng: Ở đây ngửi mùi thịt trâu tuy có nguy hiểm nhưng cũng còn hơn vào tận trong nhà mà sưởi bên cái "hòm đựng người".
Một bọn khách nữa vừa đến. Họ cũng bị mời vào ngồi một chiếu với tôi. Hết một tuần nước, người ta cất dọn đèn điếu, ấm chén để đặt vào đó một chai rượu và một mâm cỗ. Cái mâm mới giống cái phản bán thịt ở chợ làm sao, trong mâm chỉ có thịt trâu là thịt trâu, đĩa nào đĩa ấy đều đỏ hon hỏn. Ngó qua tôi đã hết vía, liền phải dịch ra chiếu ngoài. Một ông thay mặt hiếu chủ mời tôi trở lại chỗ cũ uống rượu.
Nhưng tôi khất đến trưa, lấy cớ không quen ăn cơm sáng quá. Phải hai, ba lần trần tình một cách thiết tha người ta mới để cho tôi ngồi yên.
Mâm cỗ liền bị đưa vào trong nhà với mấy ông khách mới đến.
Bây giờ không thấy mùi thịt trâu nữa. Khứu giác của tôi đã bị cái kỳ hương ấy ám ảnh làm cho mất hẳn bản năng, nó không đủ sức để làm phận sự của nó. Thảo nào những nhà hàng mắm không hề ngửi thấy mùi mắm bao giờ.
Lúc này mới kịp ngắm cảnh tượng nhà đám.
Đám to thật!
Khắp các cột nhà, cột rạp, cột nào cũng có câu đối giấy xanh. Ngoài rạp cũng như trong nhà, trướng xa tanh, câu đối cát bá che kín các bức vách và các bức thuận. Quan tài cụ Bá lù lù nằm ở gian nhà chính giữa. Hợp với hương án trong kê trước giường thờ và hương án ngoài kê giáp bực cửa, nó đã thành ra hình chữ "công" để chứa một lũ con cháu trắng lốp giống như một đàn bồ câu trắng.
- Trâu làng xong rồi! Các anh vào nhà sắp sửa chỗ tế! Mau lên! Kẻo chạ sắp tới bây giờ.
Tiếng quát tháo thình lình nổi lên giục tôi phải quay đầu lại.
Bao nhiêu bàn ghế ở gian giữa rạp đều phải khiêng đi nơi khác để nhường chỗ cho một cái nong và một đôi đẳng. Qua mấy phút nhốn nháo, lộn xộn, cái nong được an trí ngay ở phía trước thềm, đôi đẳng thì kê đối nhau ở ngoài cửa rạp. Đài rượu, be rượu, cây đèn, cây nến bày lên ngổn ngang.
Ngoài cổng, bỗng có tiếng reo ầm ầm. Một bọn chừng hơn mười người xúm nhau khiêng con trâu thui vào rạp, rồi đặt nó nằm phủ phục vào trong chiếc nong dưới thềm. Con trâu đẹp lạ, thật giống như con voi ở các cửa miếu. Làng vào.
Tất cả độ hơn chục ông, ai cũng như nấy, guốc gỗ, áo nâu, quần cháo lòng và tấm áo thụng trắng vắt ở trên vai lủng lẳng. Sau một cuộc chào mời rất cung kính của tang gia, cả bọn ngồi lên dãy phản bên kia.
Các áo thụng trắng quăng đầy mặt chiếu. Tan tuần trầu nước, và vài ba lượt thuốc lào, người ta mới cắt công việc. Sau khi ai nấy đều khoác tấm áo thụng trắng vào mình, các ông quan viên chia làm hai đội: tám ông cứ ở bên ấy, còn tám ông nữa thì sang dãy phản bên này.
Trước rạp nổi một hồi trống cái, tiếp đến tiếng kèn tò te, rồi đến tiếng đàn, tiếng sáo, tiếng tam, tiếng nhị.
Lâu lâu, các thứ nhạc khí đều im.
Ở dãy bên tả, một ông quan viên đứng ra đầu phản, giơ tay áo thụng và gào một câu "Củ soát tế vật" thật dài, rồi lại ngồi xuống chỗ cũ để nói chuyện gẫu. Dàn sáo trống phách lại thấy vi veo.
Một cái bàn đèn, hai cái bàn đèn, rồi ba cái bàn đèn, bốn cái bàn đèn. Bốn ông mặt xanh như cỏ cùng rước bốn cái bàn đèn ở nhà khách lên trước cửa rạp.
Người ta làm gì thế này? Hay là cụ Bá sinh thời có làm bạn với ả Phù dung, cho nên bây giờ con cháu dùng nó để làm tế phẩm?
Không! Những ông rước ban tĩnh đó vào khỏi cửa rạp liền chia làm hai cánh, họ đặt cái tĩnh của họ xuống phản và cùng móc túi lấy cỗ tổ tôm để vào cái đĩa.
Con hương của thánh a phiến khêu bấc thắp đèn, xin phép đám người mặc thụng trắng, rồi họ lấy gối nằm nghiêng xuống đó, diễn trò "Triệu Tử múa đao".
Một ông đại biểu của tang gia tất tả chạy đến mời "chạ" thưởng thức cái thú phun mây thở khói và lập tại mỗi dãy phản một bàn tổ tôm.
Tôi cũng dự một chân trong cuộc tổ tôm ấy.
Cái này thông lắm. Bởi vì, coi cái bộ điệu kéo dài của đám quan viên, cũng biết cuộc tế chắc còn lâu lắm. Nếu không có một trò gì tiêu khiển thì khó mà ngồi xem cho được từ đầu đến chót.
Đàn, sáo, kèn, nhị vẫn inh ỏi. Mùi thuốc phiện bay ra ngào ngạt. Người ta mời ông Đông tán nằm xuống - nằm cả áo thụng - hút luôn hai điếu. Ông ấy hãm một chén nước nóng, thở hết khói thuốc, rồi mới đứng dậy và ngân giọng xướng:
"Tế chủ dĩ hạ tựu vị".
Hiếu chủ lom khom chống chiếc gậy tre đem đám đàn bà trẻ con bước qua bậc cửa.
Ông Đông tán lại ngồi vào cạnh bàn đèn.
Đàn, sáo, kèn, nhị vẫn réo rắt xuống chìm lên bổng. Cuộc tổ tôm đã hết năm ván, hiếu chủ nhúc nhích đi hết cái thềm và bước xuống sân. Rồi hết một hội tổ tôm ông ấy mới tới bãi rơm trải ở giữa rạp là chỗ của tế chủ. Ông Đông tán lại đứng lên xướng "Cử ai".
Những tiếng "Cha ơi" của đàn bà nhịp nhàng theo nhau hòa với điệu của kèn sáo. Khi ông Đông tán xướng đến "Ai" thì bàn tổ tôm đã đánh đến ván thứ ba.
Các ông quan viên ngồi mãi cũng buồn, người thì đứng dậy tiểu tiện, kẻ thì ra đồng đại tiện, buổi trưa, tang gia bưng mấy mâm rượu ra đó mời "chạ" vừa uống rượu vừa tế. Bây giờ không còn cách từ chối, tôi phải uống rượu với bọn khách tổ tôm.
Hết tuần rượu thứ nhất, ông Đông tán xướng một tiếng "Bái" rồi lại ngồi xuống uống rượu. Theo lời xướng, hiếu chủ phục ở trước hương án.
Mâm rượu gần tàn, ông Tán đứng lên xướng "hàng".
Mãi không thấy hiếu chủ ngẩng lên, tôi tưởng ông ấy cố làm như thế.
Một lát, trước hương án có tiếng ngáy khè khè.
Té ra tế chủ đương giấc.
Ngô Tất Tố
Báo Con Ong, Số 34 - 24.1.1940