Tập Án Cái Đình Và Dao Cầu Thuyền Tán
Ngô Tất Tố
www.dtv-ebook.com

VI. Lợn Anh, Lợn Em

Tôi đã bật cười khi bốn tiếng bắt đầu lọt vào lỗ tai, vì tưởng trong nước Đại Nam lại có nhà đạo đức nào sắp sửa duy trì phong hóa cho loài lợn.

Vậy mà ngoài mấy tiếng ấy, bạn tôi nhất định không chịu nói thêm, cố bắt tôi phải đi mà tìm lấy câu cắt nghĩa.

Hôm ấy nhằm ngày 11 tháng hai, trời gần hết rét. Những ruộng ngô non đã được mưa xuân nhuộm thành màu lam. Mỗi khi gió nổi, đứng trên đường ngó ra quãng xa xa, có thể lầm với làn sóng biển.

Tiếng hát trong ruộng ngô của bọn trai gái cắt cỏ lần đưa chúng tôi đến làng Th.C. - một làng khá lớn trong huyện Gia Lâm.

Đình làng ấy cất giữa khu đồng bát ngát. Quanh đình là một bãi cỏ xanh rì.

Trời đã chiều, sân đình phấp phới bóng cờ đỏ.

Chiêng trống vẫn im lặng đánh đu dưới giá, chờ lũ con nít thỉnh thoảng nắm tay đấm một vài đấm cho đỡ cơn thèm.

Dân làng còn thưa vắng. Vì cuộc tế thần cứ hành về đêm, những người chấp sự (1) vẫn chưa tới hết. Trong lúc chờ đợi coi cuộc đại lễ, tôi có dịp dò đến gia thế của anh em nhà lợn.

-----

(1) Chấp sự: Giúp việc.

Không biết như thế có thể gọi là "Đào viên kết nghĩa" được không chứ đồng bào huynh đệ thì rất không phải. Bởi vì đôi anh em ấy, chẳng những không do một cha một mẹ đẻ sinh, mà còn không ở chung một gia đình nữa.

Với làng này, con lợn thờ cũng là một đấng thiêng liêng và tôn quý như đồng bào nó ở các làng khác.

Theo lệ, hàng năm trong làng phải có hai người đương cai, mỗi người nộp cho làng một con ỷ để cúng thần.

Điều luật ấy, người ta thi hành bằng cách bắt buộc.

Người nào đến tuổi, nhất định phải theo, không thể chối, cũng không thể bỏ. Hễ ai vô phúc mà bỏ, ấy là mang tiếng thiếu đóng, thiếu góp với làng, sống cũng như chết, nếu họ còn ở trong làng. Bởi thế những kẻ nghèo nàn đến lượt đương cai mà không có người giúp đỡ, có khi phải bán nhà bán đất, bán con bán cái để nuôi lợn cho làng. Chẳng thà mất cả con cái, nhà đất mà có con lợn nộp làng còn hơn thiếu lợn của làng mà còn nhà đất, con cái.

Sở dĩ tốn kém như vậy, là vì tục làng đã định, con lợn của mỗi người đương cai ít nhất cũng phải hai tạ, nhiều nữa thì càng hay. Cho được có một "ông ỷ" hùng vĩ như vậy, tất nhiên phải nuôi nó từ hai năm trở ra. Trong hai năm trời, hàng ngày phải cứ cung đốn bằng những chuối tiêu, bột nếp hay là của ngon vật lạ trong các mùa, cũng đã hao tiền lắm rồi, huống chi từ lúc mua con lợn giống, đến khi rước một "ông ỷ" ra thờ, còn có nhiều lệ ngạch khác. Làng đi chọn ỷ, làng vào thăm ỷ... tuần nào tiết ấy gia chủ phải có cơm rượu thết làng. Và những lúc trở trời trái gió, "ông ỷ" ăn không ngon miệng, gia chủ lại phải sửa lễ ra đình kêu đức "thượng đẳng" vuốt ve cho ngài, thì sự phí tổn còn biết đến đâu là hạn. Những người đến lượt nuôi ỷ, trong hai năm trời, lúc nào cũng phải canh cánh lo sợ, chẳng khác nuôi ông tướng giặc trong nhà. Bao giờ ỷ ra đến đình, bấy giờ mới là vững dạ.

Mười một tháng hai, chính là ngày làng ấy tế ỷ.

Những năm ngày ấy lỡ có mưa gió, việc tế phải cử hành vào lúc nhá nhem. Hôm nay vì trời nắng ráo, cho nên công việc cũng hơi chậm chạp một chút.

Ánh nắng ra khỏi sân đình. Mây đỏ rực rỡ ở đám chân trời phía tây phản chiếu lại bầu không gian trước đình, như thêm vẻ tưng bừng cho bóng cờ quạt.

Trong đình dần dần đông thêm. Tuần phu, hương lý, quan viên tế, đàn bà, trẻ con, lần lượt từ trong cổng làng tiến ra.

Trên ngọn tre của mấy làng xa tít, mặt trăng từ từ tiến lên giữa trời. Ánh trăng vằng vặc chiếu xuống khu đồng. Lúc này người đã đông nghịt. Ngoài những ông mũ cao, áo rộng xúng xính, thêm có những ông thắt lưng bó que, ăn bận rất gọn ghẽ.

Nào giáo, nào mác, nào gậy tầy, mã thò, nào những bó đuốc nứa bó sẵn, dài ba, bốn thước trở ra, các vật ấy nghênh ngang tựa khắp tường đình, giống như những khi người ta dự bị khí giới để đi đánh cướp.

Một hồi tù và rúc mau. Tiếng trống cái thủng thẳng điểm trong đầu làng hòa với tiếng hò reo của lũ con nít. Đôi cũi mới chăng thừng màu đỏ và một vài lá cờ đã rước anh em "ông lợn" ra đến cửa đình.

Cuộc tế bắt đầu khi đôi cũi ấy đặt ngang hàng nhau ở trước tiền tế.

Giữa lúc tiếng kèn, tiếng trống xen tiếng "hưng bái" làm vang trong đình, tôi có ý hỏi trong hai con lợn trong cũi, con nào là anh, con nào là em. Người ta đáp rằng: cái đó còn quyền ở đức thượng đẳng. Hễ đức thượng đẳng phù hộ giáp nào, thì lợn của giáp ấy sẽ được là anh, bây giờ chưa thể biết trước. Thì ra làng này tuy to, nhưng chỉ chia ra làm hai giáp: giáp Đông và giáp Đoài. Hai con lợn nghiêm chỉnh ngồi trong cũi kia là của mỗi giáp một con. Đôi vật ụt ịt ấy tuy không có sự huých tường, nhưng mà những người can hệ đến nó, đương vì nó tranh ngôi trên ngôi dưới.

Trong đình vừa dứt hai tiếng "lễ tất" rất dài và lớn, trống cái nổi lên thùng thùng.

Các bó đuốc nứa nhất tề châm lửa. Giáo dài, mác nhọn, gậy tầy, mã thò nhất tề theo bọn trai trẻ khỏe mạnh kéo đến vây quanh đôi cũi.

Ba hồi trống cái vừa kết liễu bằng ba tiếng cuối cùng, hai người lăm lăm cầm hai con dao sáng choang chặt các then cũi. Đôi cũi tức thì tung ra từng mảnh. Đám người vây ở quanh cũi đều giải vòng vây lùi xa ra ngoài. Tuy là thân thể béo ị, mọi ngày đi đứng rất khó nhọc, nhưng lúc này, sau một trận kinh hoảng vì sự cầm tù, đôi lợn trong phút vừa được tháo cũi, đều cắm đầu chạy bằng cả năng lực của trời phú cho.

Người ta không bắt và còn đuổi thêm cho nó chạy mãi ra ngoài đồng ruộng.

Trong đình trống càng thúc dữ, tù và nổi như ếch kêu. Dưới ánh sáng trắng trong của mặt trăng, các bó đuốc đùng đùng bốc lửa.

Trống cái trong đình thình lình im bặt. Một hồi chiêng bu bu tiếp theo. Giáo mác, gậy, gộc nhất tề theo đám đuốc lửa đùng đùng kéo xuống giữa đồng.

Khu đồng quanh đình thành một bãi chiến trường kịch liệt. Tiếng người chạy huỳnh huỵch và giáo gậy chí chát đụng nhau, làm cho bầu tịch mịch trong cánh đồng không trở nên một xứ có loạn.

"Thừng đâu? Ai cầm thừng? Đem đến đây mau!"

Tiếng hô vừa dứt, luôn đến tiếng kêu eng éc.

"Anh về giáp ta, anh về giáp ta rồi!"

Giữa những tiếng reo vui như bắt được giặc, một đám người hùng dũng khiêng một con lợn từ phía đồng xa lên đình. Con vật đã bị chém gãy một chân, máu vẫn ròng ròng chảy xuống. Một nửa số người theo lợn lật đật kéo về trong làng. Còn một nửa nữa vẫn xông xáo đuổi lợn ở dưới đồng ruộng.

Thế là năm nay anh về giáp Đoài.

Một ông người làng bảo với chúng tôi như thế, và ông còn cắt nghĩa thêm:

- Theo tục làng tôi, hễ con lợn nào được bắt về trước thì được làm anh, con lợn nào bị bắt về sau thì phải làm em.

Tôi toan hỏi làm anh có được hương hoa gì không, thì ông đã nói tiếp:

- Lát nữa, làng tôi lại còn tế một tuần nữa. Lợn anh được làm cỗ chính tiến, cúng đức thượng đẳng; lợn em phải để vào cỗ tùy tiến, cúng các bộ hạ. Tuy trong bốn năm, năm nào giáp tôi cũng được vào cỗ chính tiến...

Coi mặt ông, hình như có vẻ đắc ý, vì cả hàng giáp nhà ông đã được có lợn làm anh.

Ngô Tất Tố

Báo Con Ong, Số 27 - 6.12.1939