Tập Án Cái Đình Và Dao Cầu Thuyền Tán
Ngô Tất Tố
www.dtv-ebook.com

VIII. Vũng Lội Làng Ngang

Hẳn không ai dám bảo cụ Tam nguyên Yên Đổ làm hại phong hóa. Vì cụ vốn là một nhà đạo đức, và cái đạo đức của cụ dù không cao lắm, nhưng nó cũng đáng ngồi lên trên đầu những người cầm cân phong hóa ngày nay. Nếu mà bảo cụ làm hại phong hoá, tất nhiên sẽ bị người ta chỉ mặt mà mắng là thằng nói láo.

Vậy mà ở trong tập thơ của cụ, chúng ta đã được đọc bài sau đây:

"Đầu làng Ngang có một chỗ lội,

Có đền ông Cuội cao vòi vọi,

Đàn bà đến đó vén quần lên,

Cao thì đến háng, thấp đến gối,

Ông Cuội ngồi trên mỉm mép cười:

- Cái gì trăng trắng như con cúi.

Đàn bà khép nép ngẩng lên thưa:

- Con trót hớ hênh, ông xá tội.

- Thôi! Thôi! Con có tội chi con,

Lại đây ông cho giống ông Cuội.

Từ đó làng Ngang đẻ ra người,

Đẻ ra rặt những phường nói dối."

Bài ấy đã được in làm mẫu văn chương và được coi làm sách giáo khoa, đủ tỏ nó không hại gì phong hóa, dù nó mô tả một việc sỗ sàng mà bọn đạo đức giả vẫn kiêng như húy gia tiên không dám nói đến.

Cảnh tượng kỳ dị của vũng lội làng Ngang thế nào, một bài thơ ấy đã tả hết rồi. Không cần vẽ thêm nét bút nào nữa. Chỗ còn thiếu, chỉ là lịch sử của cái vũng ấy.

Phải, cái vũng ấy cũng có một thiên lịch sử quan hệ. Tôi đã được nghe trong khi qua huyện N.S. của tỉnh Hà Nam, tiện dịp chiêm yết (1) miếu mạo Cuội vương.

-----

(1) Chiêm yết: Xem thăm một nội dung nào đó, có ý để cho mọi người đều biết.

Thì ra ông Cuội này không phải ở trên cung trăng rơi xuống. Lúc sống, ổng cũng là cái xác thịt do người làng Ngang đẻ ra. Không biết vô tình hay hữu ý mà người đã nặn ra ổng lại đem tất cả những kiểu vụng về ở gầm trời dồn vào mặt ổng. Khiến cho bộ diện của ổng thành một chỗ chứa những cái: mày rậm, mắt sâu, mũi lõ, răng vẩu, hai môi bì bì như hai con đỉa no máu.

Thế rồi cả cặp thợ nặn kế tiếp trốn xuống âm phủ, bỏ ổng ở lại với người làng Ngang.

Chỉ vì ổng không biết nói thật bao giờ, cho nên các nhà nuôi ổng đều phải mời ổng ra cửa và tặng cho ổng cái tên "thằng Cuội".

Lúc này, đời ổng không khác cái đời hàn vi của ông tổ chúa Trịnh, ngày thì dong dẻo hết đầu làng đến cuối làng; tối đến, tất phải ăn trộm một hai con gà, hay là một hai con chó.

Hình như tướng tinh của ổng do sao thiên cẩu nhập vào, cho nên chó ở trần gian đều phải khiếp sợ.

Bất kỳ chó dữ đến đâu, hễ thấy bóng ổng là nem nép nằm im, không dám cựa, cũng không dám sủa. Vì vậy, đêm đêm ổng cứ tự do ra vào các nhà để lấy gà, chó của họ.

Chửi đã mỏi miệng, không thấy có ảnh hưởng gì, những kẻ mất gà mất chó xót ruột bảo nhau rình bắt cho được. Nhưng mà ổng trốn rất tài, mấy lần bị hóc ở trong vòng vây, đều ra được cả.

Bấy giờ, ổng đã trở nên một đấng "anh hùng", kẻ nào trái ý với ổng tức thì bị chửi, bị đánh, có khi bị dọa đốt nhà là khác. Trước cái uy phong lẫm liệt ấy, cả làng đều phải đầu hàng. Họ bèn cắt nhau nộp thuế cho ổng: mỗi ngày một con gà, mỗi tháng một con chó, và một số gạo, rượu, mắm, muối, đủ làm ma cho những con vật ấy.

Nếu trên đời chỉ có ban ngày, thì đời ổng hồi này thật là tiên cách. Ngoài những lúc ngồi vặt lông gà hay vặt lông chó, chỉ có việc ngất ngưởng với hồ rượu. Khổ một nỗi lại còn ban đêm. Nhất là những đêm mưa dầm gió bấc.

Ông cũng biết rằng đàn bà ở đời không phải là thừa. Nhưng hơn ba chục năm làm thân đàn ông, ổng chưa biết hơi đàn bà thế nào.

Nhiều lần ổng đã cậy mối hỏi vợ. Chỉ vì tướng mạo khác người của ổng, khiến cho con gái trong làng đều phải le lưỡi lắc đầu khi thấy có người bầu họ đi làm bà Cuội. Thành ra ổng cứ phải làm người trai tân mãi. Hình ảnh đàn bà luôn luôn quanh quẩn ở trước mặt ông.

Những lúc đêm đông mưa sa rả rích dưới giọt tranh, gió thổi ù ù vào các khe cửa, ổng càng trằn trọc khó ngủ, và càng mơ tưởng các cô các chị trong làng. Cái dáng, cái tóc, cái mắt, cái mũi của họ, ông đều hình dung được cả. Cho đến cái vú ệ vẫn nấp trong lần yếm nâu, ông cũng tưởng tượng ra được vì đã nhiều lần ông thấy người ta vạch ra để cho con bú.

Người ta còn mong làm nên ông này, ông khác, áo rộng mũ cao, chứ ổng thì ổng chỉ mong có thế. Đối với ổng, mũ cao áo rộng không quý bằng cái mà ông thèm biết. Nếu được nhìn qua cho biết, dẫu chết cũng là đáng đời, ông vẫn mình tự nhủ mình như thế.

Làng ông ở vào giữa cánh đồng chiêm, quanh làng toàn nước, đầu làng có một con đường độc đạo chạy qua cửa lều của ổng, những người đi lại đều phải qua đó. Ông bèn xẻ cho đứt khúc đường ấy, rồi bắc luôn hai dịp cầu bằng tre, một dịp ở trên ngang với mặt đường, và một dịp ở dưới cao hơn mặt nước một ít.

Mỗi ngày xong hai bữa ăn, ổng lại ra nằm duỗi dài ở dịp cầu dưới, hai mắt giương tròn để nhìn dịp cầu trên. Người ta hỏi ổng sao lại nằm chỗ oái oăm như vậy thì ổng nói là thích xem thiên văn, vì ở trên trời sắp có một ngôi đế tinh hiện ra ban ngày.

Đàn bà con gái lúc đầu còn thẹn, sau rồi quen dần, họ cứ đi lại một cách tự nhiên, ổng xem thiên văn mặc ổng.

Tuy vậy, khoa thiên văn ấy vẫn hoàn toàn ẩn ở trong đám huyền bí. Ông đã mòn đôi con mắt với những cái bóng thấp thoáng trên cầu tre nhưng mà "trông lên thiên địa mù mà", chẳng nhận ra cái gì hết.

Dịp cầu trên dần dần long bật cập kênh, người đi phải dò từng bước.

Sáng hôm ấy, một buổi sáng của mùa thu, ánh nắng đã hun hết những hơi sương đọng lại ban đêm, bầu trời trong như nước lọc. Trước ngọn gió thu hiu hiu thổi trên mặt nước, ổng đã thiu thiu nằm ngủ.

Chợt thấy có tiếng cót két, ổng phải bừng mắt trông ra. Một chị hàng cháo đương dún dót bước ở cầu trên với bộ quang gánh kĩu kịt. Thích chí một cách rạo rực, ổng cũng khanh khách cười dưới gầm cầu.

Tiếng cười bật ra thình lình, khiến chị hàng cháo giật mình đánh thót, ngã nhào từ trên cầu xuống.

May được chỗ đó nước nông chị ấy không bị chết đuối. Khi chị chàng lóp ngóp đứng lên, ổng vẫn nằm khểnh trên mặt cầu dưới, còn sướng chưa hết, tiếng cười vẫn giòn tan. Trông hai nồi cháo đổ ụp xuống nước, chị này vừa xót của vừa bực mình, sẵn chiếc đòn gánh nổi trên mặt nước, chị ta vớt lấy và giơ thẳng cánh phang luôn cho ổng mấy cái. Đòn trúng chỗ phạm, ổng giãy đành đạch rồi tắt thở.

Đồng vắng, kẻ giết người trốn thoát. Chiều đến, đàn quạ dập dìu kéo đến quanh cầu đưa những tiếng kêu quàng quạc. Người làng mới biết dưới cầu có người chết, họ bèn đem bộ di hài ông Cuội táng vào góc gò gần đấy.

Một tháng sau trong làng thấy động, gà chết, chó chết, lợn chết, trâu chết rồi đến người chết. Thầy bói bảo đó là vong hồn ông Cuội quấy nhiễu, vì ông chết được giờ linh, hiện nay được làm vị thần to lắm.

Cho được tạ tội với ổng, người ta phải lập ngôi đền vào chỗ lều cũ của ổng, quanh năm hương khói phụng thờ.

Sống làm sao, thác cũng chiêm bao làm vậy. Lúc ổng còn ở trên đời chỉ xem thiên văn vẫn chưa thỏa, nên khi làm đức thượng đẳng, ổng vẫn thèm xem thiên văn. Vì thế ổng đã đạp đồng (2) bảo người làng Ngang phải phá mấy dịp cầu tre của ổng đã bắc và không được lấp vũng lội giữa đường. Để cho đàn bà qua đó đều phải vén quần mà lội. Ổng ở trong đền cứ việc tự do mà nhìn.

Nghe nói ổng đã được phong đại vương. Lòng sắc cũng đủ những chữ "hộ quốc tý dân, nẫm trừ linh ứng". Trải bao dâu bể, miếu mạo của ổng và cái vũng lội cũng vẫn nghiễm nhiên trường thọ với non sông...

Ngô Tất Tố

Báo Con Ong, Số 30 - 27.12.1939

-----

(2) Đạp đồng: Tạo ra trạng thái phần hồn thoát ra khỏi phần xác, thần thánh hay vong hồn nhập vào để phán bảo, theo tín ngưỡng dân gian.