Trong cái đêm tắt đèn, ông Ng.Tr.L. vẫn chưa nói hết mỹ tục của làng D.L. Mới đây, khi ở Vinh ra, ông đã bổ khuyết với tôi chỗ đó.
Nó vẫn là chuyện con lợn. Thứ lợn đã được dân quê tôn làm ông ỷ.
- Ngoài con lợn ra, có lẽ "quý quán chúng ta" sẽ không có chuyện gì nữa.
Ông L. mở đầu bằng một giọng nói khôi hài như vậy, rồi mới vào chuyện:
"Như đêm hôm xưa, tôi đã kể qua với anh, hàng năm, cứ đến ba mươi tháng chạp thì ỷ làng tôi ra thờ.
Cho được tỏ sự vui mừng trong lúc làm tròn phận sự nuôi một con lợn, gia chủ, ngoài bữa rau nộm khao làng từ ngày 23 tháng ấy, hôm nay lại phải thết làng một bữa cháo nữa, người ta kêu là "cháo xem ỷ". Tiếng gọi là cháo, kỳ thực vẫn chỉ là rượu với thịt. Nghĩa là trong một bữa tiệc, rượu thịt chiếm chín mươi chín phần trăm, cháo chỉ có một phần trăm mà thôi. Cho đủ một bữa cháo đó, nhà giàu phải hết hàng trăm, nhà nghèo cũng tốn vài ba chục bạc. Đó mới là việc nhà chủ ông ỷ đối với dân làng. Bây giờ đến chuyện dân làng đối với ông ỷ.
"Vài bốn năm nay làng tôi hình như đã có cải cách. Trước kia, cũng như các làng, lễ nghi thuộc về ông ỷ cực kỳ long trọng. Người ta dùng đủ cờ, quạt, tàn, tán, chiêng, trống để rước ông ỷ từ nhà quan đám ra đình. Cuộc rước ấy cũng linh đình như một đám quan trảy trong thì xưa vậy.
"Sau khi ông ỷ đã ngự chiếc cũi buộc bằng dây thừng nhuộm đỏ vào đến cửa đình, dân làng bắt đầu làm lễ".
Đến đây, ông bỗng nhìn tôi bằng hai con mắt trào phúng.
"Anh đừng tưởng rằng người ta cúng thần bằng con lợn sống ấy đâu. Lễ đó, mới là trình để bộ hạ của thần biết rằng: Ông ỷ nguyên vẹn, béo tốt, không có vết tích tật bệnh gì hết. Điều đó, ở nước An Nam, kể cũng không lạ. Thuở xưa, làng Nghi Tàm còn phải tiến chim sâm cầm, mỗi lần có chim sắp sửa đem đi, đều phải trình qua quan Thượng, quan Bố tỉnh mình, và mỗi lần xin được mấy chữ "vũ mao tề mỹ" (1) của các ông ấy, đều phải tốn kém mấy chục quan tiền và lạy sầy trán là khác. Dương sao, âm vậy, người còn thế, huống chi là thần...
-----
(1) Vũ mao tề mỹ: Vũ là lông chim, mao là lông thú. “Vũ mao tề mỹ” ý nói chim đẹp, khoẻ, có tài sức bay xa.
"Lễ trình xong rồi, dân làng mới đem ông ỷ làm thịt.
"Công cuộc giết một con lợn thì chẳng có gì đáng nói. Dù con lợn ấy là một ông ỷ đi nữa, cũng đến chọc tiết, cạo lông, mổ bụng moi lấy lòng gan là cùng. Chỗ khác người của làng tôi chỉ có con dao để pha thịt ông ỷ.
"Hết thảy các làng, từ lúc giết ỷ, đến lúc thái thịt ông ỷ, họ đều dùng những dao thường, miễn là nó sắc, cắt được đứt thịt. Làng tôi, không thế, hình như các cụ ngày xưa cho rằng dao thường chắc phải làm việc uế tạp, nếu đem thái thịt cúng thần, ấy là bất kính với thần. Vì thế mới có con dao đặc biệt, chỉ chuyên để thái thịt ỷ".
- Con dao quý ấy rèn bằng gì, hình dạng ra sao? - Nhân lúc ông nghỉ để hút thuốc lào, tôi bèn hỏi xen câu đó. Ông thở khói thuốc rồi đáp:
- Nào nó có khác gì các dao thường. Chẳng qua cũng rèn bằng sắt và thép, hình dạng cũng bầu và nhọn như con dao bầu của hàng thịt vậy. Sở dĩ quan hệ, chỉ tại chức vụ của nó. Anh nên biết rằng: Với làng tôi, con dao ấy chẳng kém gì viên truyền quốc ngọc tỉ của các vua chúa bên Tàu, ngày thường nó vẫn được ông thủ từ cất kín ở trong hậu cung, chỉ có khi nào giết ỷ thì mới lấy ra. Và không phải rằng lấy ra thì đem dùng liền. Việc quỷ thần đâu có giản dị như thế! Cho được cầm con dao ấy để cắt miếng thịt, còn phải có nhiều thủ tục lôi thôi. Nếu anh chưa từng nghe ai kể chuyện, quyết không thể nào tưởng tượng ra được.
- Thì cũng đến đem dao mà mài hoặc rửa chứ gì. Hay là làng anh lại còn làm lễ xin "động dao" nữa?
- Không! Một làng văn vật như làng tôi, khi nào lại có cái lễ "con nít" đến vậy? Trước khi dùng con dao ấy, người ta cũng có mài qua làm phép. Nhưng, cái đó không phải là việc quan hệ. Điều tôi muốn nói là việc chùi con dao ấy.
"Những làng cẩu thả dùng thứ dao thường thái thịt cúng thần, ít khi họ chịu lau chùi. Hay có lau chùi đi nữa, thì họ cũng chỉ dùng cái giẻ lau bằng tấm vó cũ hay mảnh áo
rách mà thôi. Có phải thế không? Làng tôi khác hẳn. Người ta chùi dao bằng thịt! Tôi đã chứng kiến một cuộc chùi dao tại đình. Kể ra cũng hơi phiền phức. Nếu chưa trông thấy ai làm bao giờ, có lẽ người nào cũng không làm được đúng lệ của làng.
"Anh đừng tưởng rằng: Dao làng đã lấy ra đó, ai chùi thì chùi, người nào muốn chùi cũng được. Công việc đình trung bao giờ cũng theo ngôi thứ. Đến ngôi nào thì làm việc nào, làng đã có lệ nhất định như một đạo luật. Cái việc chùi dao ở làng tôi cũng theo với việc thái thịt, đều là chức trách của bàn ba.
"Con ỷ sau khi cạo lông, moi ruột, rửa cọ cho thật sạch sẽ, mấy ông đồ tể xúm nhau khiêng lên để vào cái nong đặt trên sân đình, và trình với làng công việc của mình đã xong, bấy giờ các ông hương trưởng dõng dạc ngồi trong chiếu cạp ra lệnh cho bọn bàn ba làm lễ.
"Theo lệ làng tôi, thịt ỷ chỉ để cái sỏ và một bộ lòng cúng thần, còn bao nhiêu chia cho người làng. Ai ở ngôi trên thì được phần to, kẻ nào ngôi dưới thì được phần nhỏ, trật tự hương thôn là vậy.
"Nhưng sự long trọng không ở những miếng thịt phần, nó ở cái sỏ để cúng thần đó.
"Khi đã được lệnh của ông hương trưởng, một người ở đầu bàn ba cầm con dao thường cắt một miếng nầm...".
Nói đến tiếng "nầm", ổng lại nhìn tôi và hỏi:
- Anh có biết "nầm" là gì không? Nó là dải thịt ở bụng con lợn, chạy theo chiều dài của một dãy vú.
"Thịt ấy ta thường gọi là thịt bụng, tiếng chuyên môn của phường đồ tể kêu là thịt nầm. Tôi không hiểu người bàn ba ấy có phải luyện tập gì không, mà sao hắn cắt miếng thịt khéo quá. Số thịt đó chỉ được một cân, lệ làng như vậy. Người không thạo nghề, thì cắt làm sao cho đúng, nếu không thừa ra vài lạng, tất nhiên cũng thiếu vài lạng. Đằng này không, miếng thịt của hắn cắt ra, bắc cân lên cân vừa đúng một cân, không hơn kém một đồng nào hết. Lúc đầu tôi còn ngờ là sự ngẫu nhiên. Về sau hỏi ra mới biết, người nào lên đến bàn ấy, cũng có cái diệu thủ (2) ấy.
"Thì ra những bàn ba làng tôi hình như trong mắt đã có một quả cân riêng, họ định bao nhiêu là được bấy nhiêu, không phải dùng đến cân nữa.
"Miếng nầm cắt rồi, người bàn ba ấy dẽ dàng dùng nó làm cái khăn chùi, rồi hắn lật đi lật lại con dao đặc biệt, chùi qua mỗi mặt vài lượt, rồi mới dùng dao ấy cắt cái sỏ lợn.
"Hẳn anh đã tưởng chùi dao xong rồi, miếng thịt dùng làm khăn chùi sẽ bị quẳng đi? Không! Dù là thịt làm giẻ lau, mặc lòng, nó vẫn là của "thần huệ". Chẳng những người ta không dám bỏ đi, mà còn để làm phần riêng cho một hạng người. Người được hưởng miếng thịt chùi dao, tức là các ông bàn ba đến ngôi phải chùi dao đó.
"Tuy vậy, không phải người nào có công chùi con dao ấy thì được ăn miếng thịt ấy. Có người không chùi dao mà được ăn thịt, lại cũng có người không được ăn thịt mà phải chùi dao. Cái đó mới là rắc rối!
"Là vì, như tôi đã nói, công chùi dao ở làng tôi, bao giờ cũng về người bàn ba. Nhưng ở nhà quê, chắc anh đã rõ, chỉ những người quang quẻ mới được dự việc đình trung, còn ai bị có chế (3) thì phải ở nhà đợi phần, bất luận là lễ tiệc gì. Giả sử tôi là người đầu bàn ba, đáng lẽ tôi phải chùi dao, nhưng vì có trở hay mắc một việc gì khác tôi không có mặt ở đình ngày ỷ ra thờ, thì người dưới tôi phải thay quyền tôi làm công việc cho tôi. Nghĩa là phải cắt lấy miếng thịt lợn chùi con dao đặc biệt của tôi. Còn miếng thịt đó thì vẫn là phần của tôi. Nếu phần ấy không đưa về nhà cho tôi, thì tôi được có quyền hỏi. Mà tôi đã hỏi thì làng phải xét. Một khi cái tội ăn cắp hoặc đánh mất miếng thịt chùi dao bị truy ra, thì kẻ phạm tội cực kỳ nguy nghiệp. Nghèo thì van xin mỏi gối, giàu thì bị làng mổ lợn ăn vạ".
Rồi ông kết luận:
- Anh bảo trong nước Nam đã mấy làng đã được văn vật như làng D.L. tôi chưa?
Ngô Tất Tố
Báo Con Ong, Số 32 - 10.1.1940
-----
(2) Diệu thủ: Có bàn tay tài tình, khéo léo.
(3) Có chế: Có điều gì không đúng với phép định của lệ làng.