Tập Án Cái Đình Và Dao Cầu Thuyền Tán
Ngô Tất Tố
www.dtv-ebook.com

V. Được Một Trai Mất Ba Lợn

Hồi còn thời đại khoa cử, tôi đã trọ học ở làng Th.S. trong huyện Tiên Du. Vì nhà trọ kế tiếp với đình làng ấy, nên tôi biết ông Đám Phức.

Kể ra, ông già lão này cũng như cái cung thôn trong di hạt của Từ Thức kia, không có vẻ gì đặc biệt.

Chỗ đáng cho tôi chú ý, chỉ là cái chức ông đám.

Ở thôn quê, đâu mà không có ông đám? Phận sự của viên chức này đại khái chia ra hai hạng. Làng nào có riêng ông từ, ông tế, ông đám chỉ có một việc nuôi lợn cúng thần, người ta gọi là cai đám. Làng nào không có ông từ, ông tế, ông đám tuy không phải vì nhà thánh phụng dưỡng con heo, nhưng phải kiêm lĩnh cả hai chức đó, nghĩa là, ngày thường, ông đám là kẻ trông nom đình đền, khi có đình đám cúng bái, ông đám được xúng xính mũ áo, làm chủ các cuộc tế lễ.

Với những làng theo về chế độ thứ hai, địa vị ông đám rất long trọng, dân làng thường vẫn tôn làm quan đám.

Tuy không có quyền đối với chính sự trong làng, nhưng điều kiện để làm quan đám có khi nghiệt hơn điều kiện ra làm tổng thống các nước dân chủ.

Cũng như các ông tổng thống, quan đám cũng do dân bầu, không có thi cử bổ bán gì cả, nhưng kỳ hạn chỉ có một năm là mãn một khóa, làng lại phải cử người khác.

Cố nhiên ứng cử quan đám không có chương trình để trổ cái tài nói khoác và cũng không phải vận động bằng thuốc phiện, bằng sâm panh hay bằng cô đầu, nhưng phải có đủ tư cách.

Một người ngoài năm chục tuổi, không can án, không tàn tật, không có tang chế và không hóa vợ, mới được ứng cử quan đám.

Người nào hợp với lệ ấy, làng sẽ bầu cho. Nhưng dù cả làng thuận bầu, cũng chưa là đắc cử. Còn phải đợi mệnh lệnh của thần thánh nữa.

Người ta đưa quan đám mới đến trước hương án trong đình làm lễ. Rồi họ bắt quan đám mới một tay bưng một cái đĩa, một tay cầm hai đồng tiền, vừa khấn lầm rầm vừa đặt đồng tiền xuống đĩa như người thầy bói gieo quẻ. Công việc ấy, kêu là "xin keo". Đặt xong một "keo", quan đám mới phải chìa cái đĩa ở trong tay mình cho cả mấy người chứng kiến cùng coi.

Hễ hai đồng tiền được một đồng sấp và một đồng ngửa, họ bảo đó là nhà thánh ưng ý, quan đám mới sẽ được thực thụ. Trái lại, nếu nó sấp cả, người ta bảo là nhà thánh ngài gắt, nếu nó ngửa cả, người ta bảo là nhà thánh ngài cười, quan đám mới liền bị bác bỏ, dân làng lại theo kiểu đó mà bầu người khác.

Sau khi đắc cử, quan đám phải làm bữa tiệc khao dân, giàu thì mổ bò, mổ trâu, ăn uống linh đình, kiết xác mồng tơi cũng phải cầm đất, cầm nhà, để giết lấy một con lợn mới thành danh quan đám.

Lệ luật của làng định cho, quan đám phải theo, trong khi tại chức lại càng ngặt nữa. Bất kỳ là hạng người nào, hễ đã lĩnh chức quan đám của làng thì đầu tiên phải sắm một manh quần đỏ, một chiếc nón lá quai đỏ và một đôi giày hay dép, hoặc guốc cũng được. Không cứ trời nắng, trời mưa hay trời râm, ở trong mái nhà thì thôi, nếu đã bước ra ngoài sân mà đi, dù đi một bước mặc lòng, phải nhớ đội nón, đi guốc và mặc quần đỏ. Bởi vì quan đám tức là một người luôn luôn ở cạnh nhà thánh, phải kiêng đội trời, kiêng giẫm đất, kiêng mặc đồ trắng.

Suốt trong một năm tại chức, quan đám ban đêm phải ngủ tại đình, ban ngày không được đi ra khỏi làng.

Ngoài những công việc thắp đèn, thắp hương, lau chùi đồ thờ, quét rũ mạng nhện ở đình và đền, quan đám cũng được cất nhắc việc riêng của nhà mình, nhưng phải kiêng những việc ô uế như gánh phân, gánh tro, hay là giặt dịa, may vá quần áo cho vợ.

Người ta cũng cho phép quan đám được dự những đám ăn uống do người trong làng mời đi, nhưng phải kiêng những đám ma tươi và những nhà mới có người chết.

Trong hạn tại chức, chẳng may bị có anh em họ mạc qua đời, quan đám dù không bước chân đến cửa tang gia, nhưng chiếu luật, mình phải để trở người bất hạnh ấy, thì phải lập tức sửa một cơi trầu lễ tạ nhà thánh và có lời từ chức với làng, để cho làng bầu người thay chân. Nếu không thế, sẽ bị bãi chức.

Một điều đáng sợ hơn hết, ấy là cái nạn vợ chửa.

Đã là quan đám, phần nhiều vợ không thể chửa, vì đã già rồi. Chỉ có người nào còn có bà hai, bà ba, thì mới phạm vào điều đó.

Nội các luật lệ của làng đã định, quan đám làm trái điều nào cũng bị phạt cả, nhưng các tội khác, người ta chỉ phạt nhè nhẹ. Đến như cái tội vợ chửa, thì phải chịu phạt rất nặng. Bởi vì, nó là tang chứng, tỏ rằng trong khi hầu hạ nhà thánh, quan đám đã dám làm việc ô uế.

Với làng Th.S., ông Đám Phức chính là một người đã được dân làng và đức thượng đẳng làng ấy chính thức cho làm quan đám. Tất nhiên ông phải theo đúng điều luật phổ thông của quan đám mọi làng.

Trải sáu chục năm chỉ biết có nghề cày sâu, cuốc bẫm, nhà ông không phải có dư của ăn của để mà cần năm thiếp bảy thê để gỡ lại sự thiệt thòi của cái tuổi răng long đầu bạc. Vì ông sinh con một bề, nên phải đèo bòng một người vợ hai.

Cương thừng thắng con ngựa trắng, đáng lẽ là một cách yên ủi tuổi già. Rủi cho ông, thứ phòng cưới về chưa đầy một năm thì ông đã bị bầu làm quan đám.

Tôi vào trọ làng Th.S. giữa khi ông mới nhận chức độ vài chục ngày. Bây giờ tuy đã cách hơn ba mươi năm, tôi vẫn chưa quên bộ điệu kính cẩn của ông đối với thần thánh.

Ở đình về nhà ăn cơm và ở nhà ra đình hầu hạ nhà thánh, mỗi ngày ít nhất ông phải bốn lượt đi về. Lượt nào cũng vậy, ông không hề quên chiếc nón ba tầm, đôi guốc củ tre, cây gậy mũi sắt và tấm quần sồi nhuộm màu hoa hiên.

Trong lúc tránh sự nóng nực của nhà trọ, chạy ra hóng luồng gió mát trên dãy hồ ao trước đình, tôi thường gặp ông trịnh trọng đánh một hồi chuông, và thường nói chuyện với ông sau khi ông đã quỳ gối trước hương án, đọc một thôi dài "Na-mô-a-di-đà-Phật".

Tuy không dám phàn nàn về sự phải gánh công việc nhà thánh, nhưng sắc mặt ông vẫn thường có vẻ rầu rầu, như muốn ăn năn một điều tội lỗi.

Tôi biết ông đương có một mối khổ tâm. Với tuổi lục tuần của người trần gian, cái tuổi đã bị coi như làn nắng quái chiều hôm, bao nhiêu công việc định làm mà chưa kịp làm, người ta còn phải tiến hành một cách gấp bội, huống chi câu chuyện cầu tự là chuyện quan hệ đến sự còn mất của nòi giống, ai mà trì hoãn cho được?

Nhưng chức vị của ông bắt ông phải hoãn. Trước bóng nhà thánh, ông không được tự do để tâm lực vào cái công cuộc "nước chảy qua sân" nếu ông giữ đúng luật lệ của làng đã định.

Thế rồi, một hôm làm xong công việc đèn hương, vẫn cái vẻ rầu rầu, ông than thở trước mặt tôi: "Tôi sắp mất nghiệp cậu ạ".

Và rồi từ đó trở đi, ông càng chăm việc lễ bái hơn trước. Nhưng cái vẻ rầu rầu vẫn bao phủ trên nét mặt ông thêm ba tháng nữa.

Bữa ấy, tôi đi bình văn vừa về đến nhà, thì vừa được nghe một câu đầy giọng đắc ý của ông chủ trọ:

- Cậu thử ra đình mà xem, hôm nay làng tôi ăn vạ lão Đám Phức đấy.

Vừa nói, ông lão vừa tất tả đi thẳng ra cổng, như có việc gì cần kíp, không để cho tôi hỏi thêm câu nào.

"Ừ, ăn vạ cũng là quốc tục của người Việt Nam, mình phải coi cho biết cảnh tượng của nó". Tôi nghĩ thế, và đủng đỉnh dạo ra chỗ gốc cây trên hồ trước đình như kiểu mọi ngày vẫn đi hóng mát.

Trên đình, dưới nhà tiền tế, hai bên giải vũ, chỗ nào cũng đầy những người. Với bộ mặt sầu não của kẻ có tội, ông Đám Phức đương ngồi gãi tai ở trước chiếc chiếu của

bọn hương dịch. Ông chủ nhà tôi cũng có ở đấy và đương cất cái giọng sang sảng đáp lại những sự nằn nì của ông quan đám đáng thương.

"Ông nói không thể nghe được. Mình đã hầu hạ nhà thánh, vợ vẫn chửa bĩnh ruột ra. Thế mà còn bảo xin chạ châm chước, thì phỏng châm chước làm sao? Chúng tôi cũng nể ông lắm, nhưng mà lệ làng như thế, không ai dám bỏ. Nếu như chúng tôi không ăn vạ ông, lỡ ra nhà thánh quở phạt, liệu dân làng này có yên được không?"

Một ông hương dịch đứng dậy chỉ tay vào bọn trai đinh lố nhố trong nhà tiền tế:

- Anh em cứ việc bắt lợn ra làm thịt đi. Mau mau, chạ còn sửa lễ, lễ tạ nhà thánh!

Một người trai đinh nở nang hỏi lại:

- Thưa chạ, bắt mấy con lợn? Và bắt những lợn nhà ai?

Trong đám hương dịch có tiếng dõng dạc:

- Tùy đấy, nhà ai có lợn thì bắt. Mấy con cũng được. Tưởng chừng ăn hết bao nhiêu thì bắt bấy nhiêu.

Cả bọn trai đinh tấp nập, kéo ra cổng đình, với cái bộ điệu sung sướng của một đám người kéo đi hôi của.

Một ông hương dịch hất hàm hỏi ông Đám Phức:

- Thế nào, ông có sắp sửa mâm bát nồi xanh cho chạ, hay định để chạ đi mượn?

Ông Đám Phức ra dáng khúm núm:

- Chúng tôi sống nhờ chạ, chết nhờ chạ, đâu dám để chạ phải mượn đồ dùng. Tôi đã bảo người nhà tôi từ nãy rồi. Hễ chạ dùng đến thứ gì, tôi xin đem ra thứ ấy.

Sau đình có tiếng eng éc. Bọn trai đinh hăm hở khiêng hai con lợn đặt trước sân đình.

Mấy ông hương dịch trưởng chê lợn nhỏ quá, chạ ăn không đủ, giục họ bắt thêm con nữa.

Cái bàn giết lợn kê sẵn ở trên bờ ao. Cả mấy con lợn liền bị khiêng ra chọc tiết.

Vô sự mà cứ vơ vẩn đứng mãi, hình như cũng thấy bất tiện, tôi phải tạm về nhà trọ. Nhưng cảnh tượng ăn vạ, vẫn chưa coi hết, trưa đến tôi lại ra đình.

Cỗ bàn đã làm xong rồi, người ta đương sắp ăn uống.

Mọi ngày, tiệc lệ của làng, chỉ có những người quang quẻ được dự, hôm nay là cuộc phạt vạ, cho nên những người có trở cũng đều có quyền đi ăn.

Cả làng không sót người nào, từ cụ móm răng đến những đứa trẻ răng chưa mọc đủ, chỉ trừ con gái đàn bà.

Những chiếc mâm mốc chứa toàn thịt luộc, rau chuối la liệt bày khắp trên đình, dưới nhà tiền tế và hai bên giải vũ với những thưng cơm đầy lù và những chậu nước xuýt khói bay nghi ngút.

Bốn người một cỗ, tám người hai cỗ. Ít tuổi ngồi dưới, nhiều tuổi ngồi trên, ai biết ăn, ở lại mà ăn, ai chưa biết ăn thì được chia phần để vào rổ để chị hay em đem về.

Thì ra bữa tiệc hôm nay có cả những cậu còn ẵm ngửa.

Như một đàn tằm ăn rỗi, cả làng vừa ăn vừa hạch tội khổ chủ cho sướng mồm, và ông khổ chủ với bộ khăn đen áo dài, luôn luôn đi cạnh các mâm, vái từ người già đến người trẻ.

Nghề ngà từ trưa đến chiều bữa tiệc mới tan, cả làng ai nấy gói những thịt ăn không hết cầm tay, lũ dài lũ ngắn ngất ngưởng ra về, để lại những đống mâm bát tanh banh cho người nhà Đám Phức dọn dẹp.

Đêm ấy, ông Đám Phức được ngủ ở nhà, vì đã mất chức quan Đám. Sáng mai, ông vào cái nhà tôi trọ, đánh tiếng bán nhà, bán đất để trang những món tiền lợn, tiền rượu, tiền gạo mà chạ đã ăn.

Vì nếu không trang, sẽ bị dân làng sổ ngôi và khi chết dân làng không khiêng.

Năm sau, tôi lại gặp ông. Bấy giờ ông đã dọn ra một túp lều tranh đầu làng, nhưng mà coi bộ vui vẻ hơn trước.

Ông nói:

- Cậu mừng cho tôi. Cuối năm ngoái, nhờ bóng nhà thánh phù hộ, cái hai nhà tôi đã sinh được thằng con trai. Cháu ngoan lắm.

Ngô Tất Tố

Báo Con Ong, Số 25 - 22.11.1939