Tập Án Cái Đình Và Dao Cầu Thuyền Tán
Ngô Tất Tố
www.dtv-ebook.com

Lời Giới Thiệu

Hoạt động sáng tác văn chương của Ngô Tất Tố gắn liền với cuộc đột biến sâu rộng trong lịch sử ngôn ngữ của dân tộc nửa đầu thế kỷ XX, đã khai sinh "kỷ nguyên tiếng Việt có chữ viết riêng", "quốc tự mới" là chữ quốc ngữ bùng phát, hoàn toàn thay thế "quốc tự cổ truyền" là chữ Hán.

Được thừa hưởng và ngày càng thấu hiểu "tư duy ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ", gặp thời "tiếng mẹ đẻ có chữ viết riêng", "nền quốc văn mới" ra đời, là cây bút xuất thân từ cựu học, không qua một trường lớp chính quy đào tạo "tân học" nào, luôn luôn tâm niệm "viết có thần của ngòi bút", "viết theo luật thiên nhiên như cha ông mình vẫn nói", Ngô Tất Tố đã dày công vận dụng "sức mạnh của bút lực hiện thực", đã vững vàng, đã không bỡ ngỡ, liên tiếp sáng tác ba tập phóng sự - thể văn mới, còn non trẻ trên văn đàn và báo chí nước ta trong những năm 1930 - 1945.

Xen giữa phóng sự Dao cầu thuyền tán đăng trên báo Công dân (1935) và phóng sự Việc làng đăng trên Hà Nội tân văn (1940), Ngô Tất Tố cho đăng phóng sự Tập án cái đình trên báo Con Ong vào năm 1939.

Về phóng sự Tập án cái đình

Phóng sự Tập án cái đình gồm 12 câu chuyện, đăng liên tiếp trên 14 số của tuần báo Con Ong trong các năm 1939 - 1940 (câu chuyện "Mỗi năm một lần đánh đuổi Thành hoàng" đăng trên ba số). Câu chuyện thứ nhất "Khao làng cho lợn bằng một bữa tiệc rau nộm" đăng trên báo số 19, ngày 11.10.1939, đã bị để ra ngoài trong tất cả các lần in thành sách "Phóng sự Tập án cái đình", nay xin được bổ sung.

Sáng tác thành công các tập phóng sự đã khẳng định tài năng xông xáo trên "lĩnh vực báo chí" của "nhà văn", biệt tài biết vận dụng thành thạo "anh em sinh đôi, chưa tách biệt, chưa chuyên hoá của cả văn lẫn báo" đồng thời nhạy bén đáp ứng nhu cầu cấp thiết của "lớp bạn đọc biết chữ quốc ngữ" - đòi hỏi được "đọc báo chí bằng chữ quốc ngữ" - ngày càng đông đảo trong xã hội.

Phóng sự là thể loại có hiệu quả rõ rệt, được người đọc yêu thích, dễ làm chấn động công chúng, vì vậy kiểm duyệt đương thời rất quan tâm, họ sẵn sàng cắt bỏ mọi nội dung, mọi ý tứ là bất lợi cho nhà cầm quyền.

Ngôi đình làng gắn với tục lệ cúng tế, mà cúng tế thì phải có cỗ bàn, cỗ bàn là liên quan trực tiếp tới đại gia súc trong chăn nuôi là con lợn. Đình làng cùng với tổ chức cỗ bàn cúng tế bằng thịt lợn đã tồn tại từ đời này qua đời khác, trải qua biết bao thế hệ, đã quy tụ biết bao điều trong mối quan hệ xã hội, đã gắn bó mật thiết với cuộc sống cộng đồng cư dân làng quê nước ta.

Công chúng và bạn đọc sau này, nếu không quan tâm kỹ đến toàn cảnh ra đời của Tập án cái đình sẽ ít thấy được đây là một chủ đề cô đọng nói về "trung tâm tín ngưỡng, văn hoá, hành chính của cái đình làng quê", có sức hấp dẫn bạn đọc, đã được Ngô Tất Tố tinh tế tiếp cận hiện thực ở những vấn đề điển hình nhất với giọng văn hài hước, trào lộng, đã sáng tác bằng "thể loại mới là phóng sự" nhằm góp phần xây dựng "nền quốc âm mới viết bằng tiếng mẹ đẻ" còn đang ở thời kỳ "vừa nhất sơ thành lập".

Với kiến thức xã hội học và sử học sâu rộng, tác giả chứng minh rằng cái đình có từ đời Lý, sau đó đình trở thành, trước hết là trung tâm thờ cúng thần hoàng, hoặc thờ cúng các sự vật linh thiêng của tự nhiên; Thờ cúng các bậc có công với cư dân thôn làng để tri ân và tỏ lòng trân trọng "uống nước nhớ nguồn", các nhân vật ấy được thờ cúng ở làng quê như ông vua, "ông vua" ấy tuy rằng đã chết nhưng có sắc mệnh tước phẩm của vua ban cho thì cũng như đang sống cùng dân làng. Chính vì thế mà dân quê phải kiêng tên Thành hoàng nghiêm khắc như lệ kiêng tên húy của nhà vua. Việc cúng tế thành hoàng cực kỳ kính cẩn và long trọng, việc lựa chọn người thủ từ coi việc đèn hương cũng rất quan trọng với các quy định rất nghiêm ngặt. Có nơi đình còn biến đổi thành nơi thờ cúng "các sự kiện, các nhân vật" có sự tích, có quan hệ trực tiếp đến đời sống dân quê sở tại.

Đình làng vừa là nơi thờ cúng vừa được làm trung tâm hành chính của thôn làng, là nơi tụ họp ăn uống theo ngôi thứ sắp xếp ở chốn đình trung. Những hủ tục phiền phức ở chốn đình trung, theo tác giả, đã biến cái làng cổ xưa thành một triều đình phong kiến thu nhỏ, mà ở đây, điều tệ hại hơn cả là trong dân làng hình thành tâm lí rất có lợi cho việc cai trị mà rất hại cho tư cách dân thường là suốt đời chỉ ao ước, mơ mộng vào cái "ngôi ăn chốn ở" nơi đình trung, chỉ biết "có làng" mà không thấy "có nước".

Tác giả đã du hành qua các thôn làng ở vùng đồng bằng Bắc Bộ để miêu tả những điều tai nghe mắt thấy và những cảm xúc xung quanh cái đình, các tục lệ, các hủ tục cỗ bàn cúng tế nơi làng quê.

Phóng sự Tập án cái đình kể lại sự thật, một chuỗi sự kiện và cảm xúc của tác giả xoay quanh chủ đề "cái đình ở làng quê" cùng với tục lệ ăn uống cúng tế ở làng quê nước ta, trước hết tại đồng bằng Bắc Bộ, nơi cộng đồng cư dân chuyên canh lúa nước và chăn nuôi lợn.

Con lợn là vật nuôi chủ yếu, gắn bó với cuộc sống của dân quê. Mở đầu phóng sự, tác giả nói ngay đến tục lệ hàng năm phải cúng thần bằng "ông ỷ" với nhạc khí uy nghiêm là cái trống cái, sau đó tác giả tả "cuộc thi giết bốn lợn" tại "làng Th.L - gọi là "làng Dâm" - của tỉnh Phúc An", rồi đám phạt vạ một "quan đám" "mất ba lợn, được một trai" vì phạm lỗi "vợ hai" có chửa khi còn đang làm thủ từ tại làng Th.S thuộc huyện Tiên Du, rồi đến cuộc tế lễ để xếp bậc trên dưới "lợn anh, lợn em" của làng Th.C huyện Gia Lâm.

Liên quan đến tập tục thờ Thành hoàng, tác giả tỉ mỉ kể nghi tiết về sinh hoạt, về sự tích của vị thần thờ trong làng lúc mới vào đám "đánh đuổi lốt bệt", "đánh đuổi thần hoàng" tại thôn T. làng V.L., rồi theo dõi cuộc tế xử phạt thần hoàng làng vốn làm nghề "đạo chích" ở T.D. huyện Văn Lâm tới việc thờ "ông Cuội" mắc tội nằm dưới cầu nhìn đàn bà con gái mặc váy đi trên cầu ở huyện N.S tỉnh Hà Nam.

Từ việc trong lễ cúng chỉ lên giọng đọc to tên các món ăn để tế ông Thành hoàng làng "mù mắt" ở tỉnh Hà Đông, rồi đến nghi lễ về "miếng thịt chùi dao" khi thái thịt "ông ỷ" để làm lễ ở làng D.L.

Bất ngờ là tục làm cỗ thết đãi các cụ "đánh chén" tại các "phiên chợ lợn" ở xã Cổ Loa "...Đã có điều lệ nhất định, mỗi mâm phải tám thứ nấu, tám thứ giò, nem, chả, lòng, thịt, tất cả cũng tám thứ nữa. Cộng trong một mâm lớn, nhỏ hai mươi bốn thứ...", để các cụ "ăn riêng", khi ăn phần ai người ấy gắp, cả mâm chỉ chung nhau một bát nước mắm. Ngạc nhiên là cỗ bàn cúng tế tại một đám tang với đủ cả thịt rượu, tổ tôm, thuốc phiện, đàn sáo, kèn nhị réo rắt, nhưng "vừa tế vừa ngủ", "hiếu chủ" phủ phục trước hương án rồi ngủ ngáy khè khè!

Về phóng sự Dao cầu thuyền tán

Không phải ngẫu nhiên mà từ những năm phải đắn đo chọn lựa giữa nghề làm thuốc và nghề dạy học trước thảm cảnh nền giáo dục Hán học hoàn toàn sụp đổ, nhất là từ năm 1933, mở Thọ dân y quán, với tư cách là người trong cuộc, không cần phải đi thâm nhập thực tế hoặc gián tiếp nhờ người khác kể lại< Ngô Tất Tố đã sáng tác phóng sự Dao cầu thuyền tán gồm 5 phần, đăng gọn trên báo Công dân từ số 9 - ngày 20.11.1935.

Phóng sự Dao cầu thuyền tán đã vạch trần thủ đoạn đen tối và tập trung đả kích quyết liệt vào bọn lang băm bịp bợm, vừa làm thuốc, vừa làm chủ nhà săm, vừa cho thuê đòn đám ma.

Vận dụng kiến thức sâu rộng về y học hiện đại để nghiên cứu Đông y, Ngô Tất Tố chỉ rõ: "Thuốc Tàu tuy là môn thuốc rất hay nhưng những người soạn ra sách thuốc đều chưa biết khoa học là gì, họ đem thuyết "âm dương ngũ hành" mà làm cho nghề thuốc của Tàu và của ta phải mờ ám như một môn huyền học. Bây giờ phải đem những thứ dược vật học, sinh lý giải phẫu học, bệnh lý học< mà bồi bổ cho khuyết điểm ấy< Giả sử chúng ta có một phòng thí nghiệm tính chất của thuốc Bắc và thuốc Nam và một trường học dùng phương pháp khoa học nghiên cứu nghề thuốc Tàu thì may ra cái nạn giết người lấy của ở xã hội thầy lang mới trừ bớt được" (Trích bài viết trên báo Công dân, số 5 ngày 23.10.1935).

Mỗi câu chuyện trong Tập án cái đình, trong Dao cầu thuyền tán cùng với những câu chuyện trong Việc làng, đã bổ sung cho Tắt đèn, tạo dựng nên tấm gương phản chiếu về cuộc sống của dân quê, về toàn cảnh quê hương của tất cả mọi người dân nước Việt, một dân tộc và đất nước đã tồn tại, đã gắn bó biết bao đời với sản xuất nông nghiệp.

Các tập phóng sự còn giới thiệu với bạn đọc những hiểu biết về cội nguồn, về lai lịch các vấn đề được miêu tả, người đọc luôn luôn cảm nhận được chính kiến - lúc thì mềm dẻo, khi thì rất mực kiên định của tác giả trước sự đời, việc đời và thái độ của tác giả phủ định mạnh mẽ đối với nhiều mặt cơ bản của xã hội phong kiến.

Phóng sự của Ngô Tất Tố đã cô đúc nhiều bài học thiết thực và sinh động về tâm huyết, về trí tuệ, về nghệ thuật sáng tác, góp phần quyết định, thôi thúc cho những ai da diết nuôi dưỡng niềm đam mê theo đuổi "nghề viết phóng sự" vô cùng vất vả nhưng hết sức sống động trong làng báo, làng văn.

Mùa hạ - 2017

Cao Đắc Điểm & Ngô Thị Thanh Lịch