Ấm chè đã tàn. Thằng nhỏ như đã quen lệ, lễ phép cầm ấm thay chè, pha một lượt khác.
Sau khi đã ngồi nghỉ một vài phút để dấp giọng và lấy hơi, ông đồ Đông lại tiếp tục câu chuyện đương dở:
- Ông đã đi nhiều, trải nhiều, chắc cũng biết rộng hơn tôi. Tôi tuy ở xó nhà quê, nhưng về tình hình của xã hội hiện thời, cũng biết đại khái.
Theo chỗ nhận thấy của tôi, thì hiện nay, trong nước Đại Việt nhà ta, cái nạn hoa liễu đương là thời kỳ bành trướng.
Trước hết tôi xin khen báo Thời vụ đã cố giữ được liêm sỉ, tuy trong tháng đầu, cũng đăng vài cái quảng cáo về thuốc hoa liễu, nhưng từ tháng thứ hai đã thấy bỏ hết. Ấy là một điều rất lạ trong báo giới, chỉ có báo Thời vụ làm được mà thôi. Còn các báo khác từ hàng tuần cho đến hàng ngày, tôi không thấy tờ báo nào không có độ một, hai cái quảng cáo bẩn thỉu ấy. Nghĩa là ít ra người ta cũng đăng năm, sáu cái quảng cáo dơ dáy ấy trở lên.
Tôi rất lấy làm buồn khi giở đến tờ báo, liền thấy từ trang thứ hai thứ ba trở đi, nhan nhản những câu "tuyệt nọc", "trừ căn", "năm phút khỏi bệnh", "không khỏi trả tiền lại".
Ông thử nghĩ coi: còn gì khổ cho độc giả bằng bên cạnh những bài thơ văn kiệt tác, chêm vào những cái quảng cáo ô uế ấy!
Nhưng tôi nói vậy, không phải để công kích các báo đã đăng những cái quảng cáo cho thuốc hoa liễu. Vì với các báo, sự công kích ấy là thừa. Chủ ý của tôi, chỉ cốt chứng rằng nghề thuốc hoa liễu trong mấy năm nay đã phát triển một cách không ngờ vậy.
Thật vậy, tại khắp các tỉnh, từ tỉnh nhỏ đến tỉnh lớn, từ tỉnh hạ du đến tỉnh thượng du, đâu đâu cũng có những nhà bán thuốc hoa liễu, hoặc là tổng cục hoặc là đại lý hay chi điếm của họ. Tôi đã để ý xét lai lịch của nhiều nhà: Nhà nào cũng vậy, lúc mới mở ra đều còn lèm bèm, nhom nhem, cách chừng một năm, nửa năm chi đó, đã thấy trang hoàng rực rỡ, y như hiệu bào chế Tây vậy.
Chắc ông cũng thừa biết rằng: bọn lang "hạ bộ" không phải thần thánh gì đâu, họ toàn là những hạng vô học thức và vô giáo dục, trong tay không có nghề gì kiếm ăn, nên mới xoay ra cứu nhân độ thế.
Thực ra nào họ có biết nghề thuốc là gì, tôi chưa thấy người nào dùng thuốc của họ mà được khỏi bệnh. Vậy mà họ đều sống cả, hơn nữa, họ còn sống một cách đế vương, có khi còn hơn cả đốc tờ. Ấy là vì trình độ dân mình hãy còn quá thấp, không biết suy nghĩ nông sâu, trong lúc có bệnh, thấy ai nói sao liền nghe làm vậy. Cho nên họ mới nhờ về những lời quảng cáo vô liêm sỉ mà lừa thiên hạ. Trong hai nhăm triệu con rồng cháu tiên, mỗi người bị lừa một bận thì họ giàu sụ!
Người Pháp trong các bài diễn văn, thường khoe cái công giữ gìn trật tự cho nước Nam. Nhưng theo tôi, nước Nam vẫn là nước vô trật tự.
Phải cho những người thi đậu bằng nọ bằng kia thường chỉ sống khổ, sống sở bằng cái lương công nhật đồng bạc một ngày, mà một lũ vô học, vô giáo dục vẫn được nhờ về ngón lừa đảo để tậu nhà, tậu đất, tậu xe hơi, như thế là vô trật tự, chứ gì.
Nói đến câu này, ông đồ như nghĩ ra, liền quay trở lại:
- Ấy chết, ông tha lỗi cho! Tôi vì cao hứng đã nói ra ngoài đầu đề nhiều quá.
Sở dĩ tôi nhắc đến sự phát đạt của bọn thầy lang "hạ bộ", là muốn đem chứng rõ sự thịnh vượng của bệnh hoa liễu đó thôi.
Thanh niên ở thành thị ngày nay, tôi thấy ít người thoát khỏi cái bệnh quái gở ấy. Có người mắc đi mắc lại đến năm, bảy lần mà vẫn không chừa. Trong các gia đình vợ chồng còn trẻ, tôi thấy nhiều đứa trẻ con vì cái di tộc của hoa liễu mà chốc lở, gầy còm, xanh xao, sống một vài tuổi thì chết, thật là tội nghiệp.
Bây giờ đây, số người của mình còn đương mỗi ngày mỗi tăng, các báo và các nhà cầm quyền luôn luôn phải lo đến nạn nhân mãn. Nhưng mà nạn ấy chẳng bao lâu nữa thì hết, bởi vì trong máu An Nam vi trùng hoa liễu lẫn vào đã nhiều. Chỉ độ năm chục năm nữa, nó sẽ làm cho nòi giống của mình điêu linh dần dần, không khéo một ngày kia sẽ đến tiêu diệt, có thể nào "nhân mãn" mãi được.
Thế là bệnh hoa liễu bây giờ đã trở thành cái bệnh thông thường của người mình rồi.
Ba mươi năm về trước đâu có như thế.
Tôi còn nhớ, một năm, vào khoảng giáp Tết, tôi cùng người bạn lên chơi vùng Sóc Sơn, khi về, tiện thể vào thăm cảnh chợ Cổ Loa.
Chợ ấy kể cũng vào hạng chợ lớn trong xứ Bắc Kỳ. Nó là chỗ mua bán của nhân dân mấy huyện Đông Anh, Kim Anh, Đông Ngàn, Yên Phong, và Gia Lâm. Những thứ lâm sản như măng tre, nấm hương ở thượng du vẫn đem về đó tiêu thụ. Rồi những đồ dệt như vải lụa, khăn áo... và các đồ đan như rổ rá, thúng mẹt... của trung châu đều do đó mà tải lên thượng du.
Hôm đó nhằm ngày phiên chợ, đáng lẽ người họp đông lắm mới phải. Trái lại, tôi thấy quang cảnh thật là quạnh hiu. Trời đã gần trưa mà trong chợ vẫn lèo tèo độ vài trăm người, mấy ông hàng trâu, mấy ông hàng lợn, rồi vài chục người bán gạo, bán củi. Người bán thì có, nhưng người mua thì vắng ngăn ngắt.
Sự lạ lùng ấy bắt tôi phải chú ý ngắm khắp cả chợ. Thì ra về phần đàn bà ít quá, thỉnh thoảng mới có bà lão độ ngoài sáu mươi, ăn mặc cực kỳ rách rưới. Còn hạng từ năm chục trở xuống, nhất là con gái đến tuổi đến thì tuyệt nhiên không có người nào.
Tôi cũng biết có sự bất thường, nhưng không dám hỏi và cũng không biết hỏi ai. Bấy giờ tôi phỏng đoán rằng, hôm nay chắc có toán lính nào sắp sửa qua chợ, đàn bà con gái sợ họ chòng ghẹo, cho nên không ai dám đi.
Khi về đến làng, hỏi lại người làng, mới biết rằng mình đoán sai. Không phải là có lính tráng nào cả. Chỉ vì đàn bà con gái nghe đồn cạnh chợ có thằng tim la, sợ nó bị hiếp, cho nên không ai dám đi.
Ông có biết "thằng tim la" trong óc đàn bà con gái thế nào không? Ôi thôi, thật là một thứ yêu ma quỷ quái không phải là người.
Có người nói rằng: Mười đầu ngón tay của thằng tim la lớn như mười quả chuối tiêu, nó nắm được ai, ấy là người ấy không thể cựa được.
Có người nói rằng: Bàn tay và ống chân của thằng tim la đều có mắt cả. Bởi thế, đàn bà con gái đi ở đằng xa nó đã trông thấy.
Có người nói rằng: Thằng tim la chỉ hay ăn mắt đàn bà con gái, mỗi khi hiếp một người nào, nó liền móc lấy hai mắt mà ăn.
Có người nói rằng: Nó chỉ thích liếm hạ bộ của con gái. Người nào bị nó liếm, tự nhiên bị bệnh lở loét mà chết.
Rồi thì có người lại nói: Nó là một vị dâm thần trên trời sai xuống để giết cho đủ ba trăm đàn bà. Bây giờ nó mới giết hơn một trăm người, còn thiếu hơn một trăm người nữa...
Còn nhiều nữa, các bà ấy còn tả với tôi nhiều cái bộ dạng kỳ dị hơn nữa. Nhưng đại khái bà nào cũng tin thằng tim la không phải là người như ta.
Những lời nói ấy tuy là ấu trĩ vô lý, nhưng cũng chứng rằng nước mình khi ấy rất ít người mắc bệnh tim la. Người ta không biết bệnh ấy thế nào, nên mới tưởng tượng ra cái hình dạng đáng ghê sợ ấy.
Trong khoảng hơn ba chục năm, người có bệnh đã đi từ chỗ yêu ma quỷ quái đến chỗ phổ thông, nước mình thật đã tiến được một bước khá dài vậy.
Đó có phải là tai vạ của văn minh vật chất hay không?
Ông hãy ngồi đây, tôi xin thêm một bằng chứng nữa...
Thuyết Hải
Thời vụ, Số 110 - 14.3.1939