Tập Án Cái Đình Và Dao Cầu Thuyền Tán
Ngô Tất Tố
www.dtv-ebook.com

VII. Ông Thành Hoàng Ấy Đã Bị Cách Rồi

Năm nọ, một hôm, qua huyện Văn Lâm, tôi phải hết sức ngạc nhiên về cái lỗ hổng sau bầu của đình làng T.D.

Với thôn quê, bất kỳ làng nào, "chuôm bầu" vẫn là một chỗ quan hệ. Tuy bị mang tên xấu xí, nhưng nó chính là bộ phận trọng yếu trong các tòa đình.

Thường thường các đình nhà quê, không kể hành lang, giải vũ, ít ra cũng phải có đủ ba lớp. Ngoài nhất thì nhà tiền tế, dùng để tế lễ khi có đám lớn. Chính giữa là đình dùng để họp hành ăn uống và lễ bái trong các tiệc thường. Chuôm bầu là lớp trong nhất, nối liền với đình bằng kiểu "trồng diêm" hay kiểu "chuôi duộc", long ngai, bài vị (1) của thành hoàng để ở trong đó.

-----

(1) Long ngai: Nơi ngồi trang trọng, tôn kính; Bài vị: Thẻ bằng giấy, bằng gỗ có ghi tên tuổi, chức vụ... thành hoàng để thờ.

Bởi vì thành hoàng làng nào tức là vua của làng ấy cho nên chuôm bầu mới được coi là nơi nghiêm cẩn, người ta hay gọi nó là hậu cung.

Ai đã biết sự long trọng của hậu cung của các vua chúa, thì cũng có thể tưởng tượng ra được sự long trọng của chuôm bầu của các thành hoàng.

Ngoài chỗ chuôm bầu giáp nhau với đình, tất nhiên phải có một nếp cửa võng. Ở nhiều làng, cái cửa võng ấy đã phải chạm đến chín từng rồng phượng cho đúng với chữ "cửu trùng". Qua nếp cửa võng, còn cách một lần cửa nữa mới đến chuôm bầu. Lần cửa trong này, quanh năm đều đóng im ỉm. Cho đến những lúc tế lễ, cánh cửa tuy có hé ra giây lát để cho người có việc ra vào, nhưng ở bên ngoài vẫn phải buông mành sùm sụp. Trừ ông thủ từ là người đối với thành hoàng vẫn kiêm ba chức: quan hoạn, lính thị vệ và ngự tiền văn phòng bí thư (2), không ai được qua lại cửa đó. Ngoài lớp cửa ấy thì thôi, trong "bầu" không có cái cửa nào khác, dù là một cái cửa sổ để lấy ánh sáng.

Vậy mà riêng cái chuôm bầu của làng T.D. thì ở đằng sau lại có lỗ thủng vừa lọt người chui. Nó không tròn, không vuông, không bồ dục, không miếng huỳnh (3], chẳng ra cái hình gì cả. Nếu nó là chỗ tường lở, thì chỉ xây vào năm sáu viên gạch là kín, chứ không khó nhọc chút nào. Đằng này người ta không xây và ở trong lỗ, lại có bưng một lớp ván coi bộ cực kỳ kiên cố. Hơn nữa miệng lỗ lại có những vết chân người và có trát vôi nhẵn nhụi, coi rõ là chỗ làm sẵn từ lúc dựng đình, không phải là có ai đào khoét.

"Cái lỗ này là cái quan hệ chắc có lịch sử sao đó, không phải là một chuyện thường". Tôi nghĩ thế. Cách một tuần sau, tôi mới hiểu được nhiệm vụ của quái vật ấy.

Bữa ấy nhằm ngày 14 tháng tám, chính là ngày thánh hóa của đức thượng đẳng làng T.D. Trời đã chiều.

Dân làng sắp sửa mũ áo tế thần.

Quang cảnh cuộc tế của làng này không khác gì các làng khác. Lạ một điều là, người ta cố ý kéo dài chuyện "hưng bái" (4) ấy từ chiều cho đến tối sẩm và lúc tế cái bài vị lại để ở hương án ngoài.

-----

(2) Hoạn quan: Người đàn ông bị cắt bỏ tinh hoàn, không có khả năng sinh dục, chuyên hầu hạ trong hậu cung của vua; Lính thị vệ: Lính hộ vệ của vua; Ngự tiền văn phòng bí thư: Người giữ văn thư bí mật bên cạnh vua.

(3) Miếng huỳnh (miếng hoàng): Khoanh nhỏ của rãnh khô quanh thành (?).

(4) Hưng bái (Hương bái): Làm lễ, thắp hương, vái lạy thờ thần.

Tuần rượu cuối cùng bắt đầu thì ở quanh đình và nhà tiền tế, một bọn đàn ông ăn bận gọn gàng tấp nập kéo ra. Tôi biết bọn đó toàn là tuần phu, vì ở lưng họ, sườn họ có những hiệu ốc, hiệu sừng lủng lẳng. Nhưng tôi không hiểu vì sao bọn tuần lại không vác sào, vác mác, họ chỉ dùng toàn khí giới của Đinh Tiên Hoàng, thứ khí giới chế bằng bông lau, bông sậy.

Trong đình dứt hồi tò te và tiếng tùng cắc, bao nhiêu đèn nến đều bị tắt phụt. Cả đến cái hương đương cháy cũng bị người ta dầm đi, không để cho nó có dính chút lửa đỏ.

Cả khu lòng đình tối như hũ nút. Nếu là lúc này, có lẽ tôi phải ngờ là thành hoàng làng ấy thử tập một cuộc phòng không thụ động. Nhưng hồi ấy, ở đây chưa phải đề phòng về nạn máy bay, cái danh từ kia chưa có, tôi không thể đoán họ sắp làm gì.

Tù và thình lình nổi lên choáng óc. Rồi thì mõ cá đập choang choác, trống cái giật giọng điểm ba tiếng một. Trước nhà tiền tế và chung quanh đình, bóng người nhốn nháo như đám chạy cướp, những ông tuần phu với những khí giới lau sậy tất tả chạy ra sau đình.

Cái gì thế? Trộm vào trong đình hay là trong làng đã xảy ra chuyện bất thường? Một người xa lạ mục kích cái cảnh tượng ấy, tất nhiên phải hỏi như vậy.

Vội quá, tôi không kịp hỏi và cứ theo bọn di tướng của vua nhà Đinh đi ra phía sau.

Vầng trăng của tiết Trung thu vằng vặc tự trên lưng trời chiếu xuống, cả khu sau đình sáng như ban ngày. Trừ ra một dải sau bầu riêng có bầu bóng cây um tùm.

Trống cái, mõ cá, tù và ở đằng trước đình vẫn thúc liên thanh bất chỉ, các ông tuần phu vẫn vác khí giới lau sậy láo nháo chạy ở sau đình.

Một vật đen đen lù lù từ lỗ sau bầu nhuồi ra. Dưới luồng sáng thấp thoáng của ánh trăng rọi trong bóng cây, tôi còn nhận ra một cái đầu người. Và nhanh như chớp, cái đầu người ấy đã đưa cả một thằng người nhảy từ lỗ thủng xuống đất.

- Mày chạy lên trời!

- Mày chạy lên trời!

Sau mấy tiếng thét rất có lễ độ, thằng người ấy liền bị hai ông tuần phu quật cho mấy cái gậy sậy.

Rồi nó chạy ù ra phía trước đình với một vật vuông vuông ôm ở trước ngực.

Trộm! Hẳn là thừa cơ lúc làng đang tế, trộm vào ăn trộm đồ thờ.

Nếu nghĩ như vậy thì chỉ đúng được một nửa còn một nửa nữa không đúng. Bởi vì thằng người vừa bị đánh đó chính là một ông tiên chỉ trong làng, mà vật vuông vuông hắn ôm trước ngực tức là bài vị thành hoàng.

Trống, mõ, tù và im hẳn. Trong đình lại có đèn sáng. Ông tiên chỉ ôm chiếc bài vị tụt vào trong bầu.

Cả làng đều làm lễ tạ. Người được vào lễ trước nhất là hai ông tuần mới thưởng cho ông tiên chỉ mấy cây gậy sậy trong phút ông ấy ở lỗ sau bầu chui ra.

Tan cuộc lễ bái, dân làng đều có vẻ mặt rười rượi, như lo sắp có tai vạ đến nơi. Người ta thì thầm bảo nhau:

- Thế là năm nay vận làng lại không ra sao!

Tôi đã cố hỏi sự tích của ván trò ấy. Nhưng người làng ấy không nói. Họ đã nhìn tôi bằng con mắt bất bình và đáp vắn rằng:

- Đấy là cái hèm làng tôi.

Cái hèm ấy, tôi đã khám phá ra được bởi một ông bạn quê ở cạnh đó.

Thì ra đức đại vương của làng T.D. vốn là đồng nghiệp của chú Chích. Ngài là người về đời Lê, lúc sống rất giỏi về khoa đào tường khoét ngạch. Thế nhưng ngài cũng bị bắt và bị xử tử. Chỉ vì nhờ được giờ linh, cho nên mới được tôn làm thành hoàng. Mười bốn tháng tám chính là cái ngày ngài phải hy sinh tính mệnh cho nghề nghiệp. Vì thế hàng năm cứ đến ngày ấy, dân làng phải diễn một cuộc "xuyên tường tạc bích" (5) để kỷ niệm sự nghiệp của ngài. Cái ông tiên chỉ ôm chiếc bài vị tức là giả thân của ngài. Còn những tuần phu vác khí giới lau sậy thì là vai tử thù của ngài ngày xưa. Phận sự họ cần phải bắt ngài cho được, khi ngài làm việc phi pháp. Nhưng bắt được ngài, không phải là việc có công.

Cứ như cổ tục làng ấy truyền lại, thì khi cái ông tiên chỉ ôm chiếc bài vị chui qua lỗ hổng sau đình, nếu bị người làng đánh phải một roi, tức là cả một năm ấy, cả làng làm ăn không hay. Mọi năm cái ngày kỷ niệm thường gặp mưa gió tối trời, ông tiên chỉ vẫn chui được thoát. Năm nay vì trời sáng trăng cho nên ông ấy bị bắt tại trận. Thế là cái điềm không tốt.

Té ra, dương sao âm vậy, trong "giới" thành hoàng cũng có đủ các thứ người như các giới khác ở nhân gian.

Nghe đâu cũng vì thiên hạ chế giễu nhiều quá, gần đây làng ấy đã cách vị thành hoàng ấy mà rước một ông thần "bơi'" về thờ. Bây giờ người ta đà kỷ niệm thành hoàng bằng cuộc bơi trải (6).

Té ra dư luận của người An Nam chỉ ảnh hưởng ở thần giới.

Thế cũng còn là may!

Ngô Tất Tố

Báo Con Ong, Số 29 - 20.12.1939

-----

(5) Xuyên tường tạc bích: Băng qua tường phục dựng lại.

(6) Bơi trải: Đua thuyền theo kiểu dân gian cổ truyền.