Tập Án Cái Đình Và Dao Cầu Thuyền Tán
Ngô Tất Tố
www.dtv-ebook.com

IX. Đuổi Giặc Cho Thần

Gần hai chục năm lăn lóc trong nghề gõ đầu trẻ ở vùng thôn quê, ông giáo Hoàng đã vô tình trở nên cái kho chứa những tục lạ.

Một hôm gặp tôi sau khi xa nhau trên mười năm trời, ông đã khoe cái kho ấy với tôi để tiêu thì giờ trong quãng đêm trường. Ông nói:

- Chúng mình vẫn tin cổ nhân, cứ tưởng thông minh chính trực mới gọi là thần. Té ra không phải như thế.

Vì tập hồ sơ của Tập án cái đình đương cần sưu tầm tài liệu nên khi thấy ổng giở câu chuyện đó tôi tưởng như bắt được của, và tôi chờ đợi lời ổng một cách vui vẻ.

Ngừng lại một lát để tìm manh mối cho sự ghi nhớ trong óc, ổng tiếp:

- Hồi còn dạy học ở tỉnh Hà Đông, chính tôi đã được mục kích một cuộc bênh vực cho thần.

Rồi nhìn tôi bằng hai con mắt trào phúng, ổng hỏi:

- Anh đã qua làng V.A. bao giờ hay chưa?

Và không đợi tôi trả lời, ổng dẽ dàng kể:

"Ở vùng thôn quê, các làng thường thường vào đám trong khoảng tháng hai, tháng ba, riêng có làng này vào đám tháng tám.

"May sao cái ngày nhập tịch của họ lại nhằm giữa ngày chủ nhật, theo lệ các ông giáo trước, tôi phải sửa ít hương sáp ra đình lễ thần. Anh đừng cười. Chúng tôi đi gõ đầu trẻ nhà quê, vẫn phải nặng hơn các bạn nhà giáo thành thị khoản đó.

"Ở nhà quê, làm thân một người trợ giáo, thật chẳng khác một người nàng dâu cưới về nhà chồng phải ở cho được lòng tất cả mọi người, nghĩa là ngoài những người trên, chúng tôi còn phải thờ phụng ông hương, ông lý và ông thần của làng sở tại. Nếu không như thế, họ cho là khinh làng họ, rồi mình khó mà ở yên với họ. Vì thế, tôi cũng không thể làm ngơ với ngày tế thần của họ, dù mà tôi vẫn không biết ông thần ấy là ông nào.

"Bởi hôm ấy nhằm ngày chủ nhật, tôi định lễ cho xong chuyện để có thì giờ đi chơi, nên mới ra đình thật sớm, từ khi ngoài đình mới nổi tiếng trống.

"Nhưng khi tới đình, xôi lợn tuy đã sắp sửa sẵn sàng, trong đình vẫn im phăng phắc, quan viên và các hương lý, chức dịch còn tấp nập ở nhà tiền tế. Các tường bao lan cũng như dưới mái giải vũ, giáo mác, sào gậy ngổn ngang. Phía bắc sân đình có bày hai chiếc hương án: chiếc trong đặt cái sỏ lợn và một mâm xôi, chiếc ngoài thì để cây đèn, ống hương, đĩa trầu cau và cái mâm bồng nhỏ xếp đầy hồng, chuối. Đằng trước hương án, có trải chiếc chiếu cạp điều.

"Theo lời mời của một ông hương trưởng, tôi vào ngồi ở sân đình. Trong tiền tế bắt đầu nổi hồi trống cái. Với bộ mũ áo xúng xính, ông tế chủ phủ phục trước chiếc hương án giữa sân. Sau khi lễ hết bốn lễ, ông ấy giơ cao đôi tay áo thụng che miệng và đọc những tiếng lâm râm. Chừng một hồi dài, ông ấy lạy thêm bốn lạy rồi mới khúm núm đi lùi trở ra. Giữa những tiếng tùng cắc xen nhau rối rít, các ông hương trưởng lần lượt kế chân ông chủ tế khấu đầu trước cái hương án, coi bộ rất kính cẩn.

"Nén hương cháy vừa đến chân, ông tế chủ lại vào phía trước hương án chắp tay vái luôn ba vái. Trong đình bỗng có hồi trống ngũ liên. Quanh đình, tù và thổi lên inh ỏi. Giữa lúc ấy, hai đầu hương án thấy có hai người lực lưỡng sấn vào, một người bưng mâm xôi, một người bưng mâm sỏ lợn, đùng đùng chạy thẳng lên phía đầu làng.

"Trống ngũ liên càng thúc dữ dội, tù và vẫn kế tiếp nhau rúc từng hồi dài. Bao nhiêu sào gậy, giáo mác dựa ở quanh đình đều bị các ông tuần phu vớ lấy. Rồi hùng dũng như đám đánh cướp, các ông ấy nhất tề đuổi theo hai người đương bưng hai mâm xôi, sỏ mà chạy. Những tiếng thét đánh, thét trói vang một góc trời.

"Bởi chưa hiểu họ làm trò gì, nên tôi phải ra đầu đình đứng xem".

Không muốn làm đứt câu chuyện của ổng, tôi chỉ lắng tai ngồi nghe. Ổng lại dừng lại giây phút, để châm một điếu thuốc, rồi thêm:

"Người ta thấy vậy, có khi sẽ tưởng hai người đương bưng hai mâm xôi, sỏ là kẻ bất lương ăn cướp đồ lễ của làng. Nhưng mà không phải. Đương lúc cả làng người tấp nập ở đó, dù kẻ táo gan đến đâu cũng không có đủ can đảm mà lấy đồ lễ của họ. Cuộc đó chỉ là một cuộc đóng trò. Họ đuổi theo hai người kia ra tới cổng làng thì đều quay lại với dáng bộ của toán quân thắng trận.

"Sau khi sào gậy, giáo mác của họ đã quẳng cả vào một chỗ; bấy giờ trong đình mới dạo trống tế.

"Chờ đến bao giờ cho họ tế xong, mình mới được lễ...".

Tôi nghĩ thế và toan cáo từ để về nhà trọ. Nhưng ông hương trưởng nhất định giữ lại, để xơi với dân chén nước. Bởi vì ấm nước họ đun từ khi tôi thoạt bước chân lên đình, bây giờ mới sôi.

"Cố nhiên tôi phải chiều ý ông ta, bấm bụng ngồi lại, để coi một cuộc "hưng bái" của họ.

"Thì ra nghi tiết cuộc tế của làng này khác hẳn mọi làng.

Mọi làng lúc tế đều xướng bằng tiếng chữ Hán, làng này xướng tế lại có pha thêm tiếng ta".

Điếu thuốc cháy đã hết nửa, ổng đặt vào trên chiếc đĩa gạt tàn và lại mỉm cười hỏi tôi:

- Anh có đoán ra họ xướng những tiếng gì không? - Và ông lại đáp:

- "Miếng xôi, miếng thịt, miếng dồi, miếng gan!". Ấy họ xướng tế như thế. Suýt nữa tôi phải bật cười khi nghe tiếng ông Đông tán ngân giọng thật dài để đọc ba tiếng "miếng bồ dục".

"Lục phủ, ngũ tạng con lợn đã bị đọc lên khắp lượt, cuộc tế mới dứt. Bấy giờ người ta mới đệ vàng hương của tôi vào trong hương án và bảo tôi xuống lễ thánh.

"Sau đó, tôi đã dò hỏi nhiều người về cái sự tích của đức thượng đẳng làng ấy. Không biết đức thượng đẳng ấy là hạng người gì, mà trong lúc tế lại có những trò lạ kia? Nhưng mà hết thảy người làng không ai chịu nói. Sau cùng, nhờ có một người ở làng bên cạnh thuật lại, tôi mới hiểu rõ.

"Thì ra đức thượng đẳng của làng này là một người "mù", mà vì chết được giờ linh, nên ngài cứ được làm vua một làng. Và khi đã được làm thành hoàng, ngài vẫn cứ mù như thường, vì thế, lúc tế, sợ ngài không biết, người ta mới phải đọc từng miếng ăn cho ngài được rõ.

"Tế lễ như vậy, ai nghe mà chẳng tức cười. Một hôm, cả làng đương tế, thình lình có hai người lạ đi qua sân đình. Thấy kiểu xướng tế như vậy, họ đều ngứa miệng và chêm một câu...

"Bản ý họ định nói vụng mà thôi, chẳng ngờ lại lọt vào tai người làng. "Ngạo mạn quỷ thần" như thế, ai mà không tức. Tức thì cả làng đổ ra, đuổi hai người ấy mà đánh. Trong lúc thịnh nộ, người ta chỉ muốn đánh cho đã hờn. Cả hai người kia đều chết thẳng cẳng, và đều bị đám dân làng lôi đi vùi vào một xó.

"Rồi đó trong làng tự nhiên lủng củng. Gà, lợn, trâu, bò và người không đau ốm gì, bỗng chốc lăn ra mà chết. Cả làng phải cắt người đi xem bói.

"Thầy bói bảo rằng: Đó là hai người chết oan báo thù, họ vào trong đình tranh cái ngai vàng của ông thành hoàng. Bởi ông thành hoàng mắt mũi chẳng có, không địch lại với họ, nên ngài phải bỏ hậu cung mà đi. Bây giờ nếu muốn cho yên, cả làng phải tạ tội với hai người đó, để họ trả cái ngai vàng cho đức thượng đẳng.

"Vì vậy, mỗi khi cúng tế thành hoàng, người ta cứ phải thiết lập bàn thờ ở giữa sân để cúng hai ông bạo kia đã.

Cúng các ông ấy xơi rồi, cả làng lại phải diễn lại cái trò đuổi đánh ngày xưa, để hai ông ấy trốn ra khỏi làng, rồi mới cúng đến thành hoàng, thì đức thành hoàng mới dám ngồi yên mà hưởng. Nếu như hai ông giặc đó còn lảng vảng ở quanh khu đình thì đức thành hoàng sẽ không dám. Người làng ấy đều tin như vậy".

Ngô Tất Tố

Báo Con Ong Số 31 - 3.1.1940