VỀ VIỆC ĐÌNH TRUNG Ở THÔN QUÊ
Mấy lời nói đầu
Chắc ai cũng biết thôn quê xứ ta hãy còn nhiều nơi nhân dân rất hủ lậu.
Thế giới của họ thu gọn vào bốn dãy thành tre, ngoài cổng làng trời đất chi chi, tự họ chân chưa từng qua, mắt chưa từng thấy.
Công việc của họ, tóm lại chỉ có ba mục: cúng tế, ăn uống và kiện cáo.
Có ba mục đó, họ cùng nhau theo đuổi suốt năm này sang năm khác, từ đời nọ đến đời kia, mà vẫn không hề thay đổi.
Biết bao người vì cúng tế mà phải bán vợ đợ con, biết bao người vì ăn uống mà phải mang công lĩnh nợ, biết bao người vì kiện cáo mà phải tan cửa nát nhà, hết cơ hết nghiệp, ấy là chưa kể những việc hại đến tính mệnh, hại đến chủng tộc.
Cái tình trạng hủ lậu ở thôn quê, thật không thể mô tả cho cùng. Nói tóm một câu, hằng hà sa số những nơi hoa gạo đỏ, lá đa xanh, mà người ta vẫn kêu là xóm tử làng phần kia, hầu hết là những đám tối như đêm, đen như mực vậy.
Cái đình ở thôn quê, cũng như cái sân đại trào của nước quân chủ vậy, trong mắt người quê, cái đình tức là chỗ tôn nghiêm vô thượng mà cũng là nơi hy vọng cuối cùng...
Nói cho đúng, cái đình tức là chỗ gây ra cho dân quê thói mê tín, tục giai cấp và nhiều thảm trạng khác, như đánh nhau kiện nhau v.v..., nó lại là cái cạm làm cho dân quê suốt đời chỉ quanh quẩn ở xó làng mà không dám đi đâu nữa.
Giữa lúc sinh hoạt khó khăn này, cuộc kinh tế cạnh tranh không để cho một dân tộc vừa khờ hớ vừa hoang phí được cơm no áo lành. Những cái hủ lậu ở thôn quê, nay đã đến ngày kíp phải bài trừ.
Song, trước khi bài trừ những cái hủ lậu ấy, ta cần phải biết rõ chân tướng của nó ra sao.
Vì vậy bản báo mở ra mục này.
Chúng tôi muốn rằng, từ nay sẽ đem những tội ác của cái đình, nghĩa là những cái hủ lậu ở thôn quê kia, hàng ngày cống hiến cho bạn đọc và mong các ngài ai nấy lưu tâm nghiên cứu, tìm cách bài trừ những cái hủ lậu đó...
Thục Điểu
Đông Phương, Số 474 - 6.7.1931
***
TỤC THỜ THÀNH HOÀNG CỦA CÁC LÀNG
Nói đến tục thờ cúng tại đình của các làng quê, lẽ ra phải kể hết nguyên ủy của nó, nghĩa là phải xét xem tục ấy phát sinh từ đời nào, rồi sau biến cải ra sao, thì việc khảo cứu mới có giá trị...
Hiện nay các làng nhà quê, nhất là nhà quê ở Bắc Kỳ, làng nào cũng có thờ cúng thành hoàng.
Số ngạch thành hoàng của các làng thường không hạn định, hoặc một làng thờ năm bảy vị, hoặc năm bảy làng thờ chung một vị. Thành hoàng nghĩa là vua của một thành, tức là vua của một vùng vậy.
Nơi thờ thành hoàng, mỗi làng đều có hai sở, một sở là
đình, một sở là đền (có làng gọi là miếu). Ngày thường bài vị của thành hoàng vẫn để ở đền. Đến kỳ vào đám, dân làng mới sắm sửa hương án long đình, các thứ nghi trượng tới đền rước Thần bài về đình mà thờ trong một hạn năm mười ngày hay nửa tháng một tháng chi đó. Lúc ấy ở đình thường thường tế lễ chèo hát, đèn hương thắp suốt ngày đêm. Tới ngày rã đám, dân làng lại rước Thần bài sang đền.
Tư cách thành hoàng của các làng không nhất định là hạng người nào: làng thì thờ những tôi trung gái liệt, làng thì thờ những quỷ lạ ma thiêng, lại có làng thờ cả thằng ăn trộm, đứa ăn mày nữa.
Mỗi vị thành hoàng đều có một bản tiểu truyện, các làng gọi là thần tích hay sự tích. Bản thần tích ấy chép ông thành hoàng lúc còn sống thân thế ra sao, lúc chết đi thiêng liêng thế nào. Những thần tích đều có trình qua bộ Lễ, để xin sắc mịnh cho thành hoàng.
Theo lệ của bộ Lễ, những vị thành hoàng nào đã có sự tích rành rọt, dân trong hạt đã nói là linh thiêng, thì đều được sắc mịnh tất cả.
Lộc Hà
Đông Phương, Số 476 - 8.7.1931